Tel: +84 24 35742022 | Fax: +84 24 35742020

Cách tính thuế tài nguyên với doanh nghiệp khai thác đá

Thứ tư, 01-08-2018 | 10:31:00 AM GMT+7 Bản in
(Chinhphu.vn) - Qua Hệ thống Tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Công ty CP Khoáng sản An Khánh (Thái Nguyên) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn cách tính thuế tài nguyên đối với đá khai thác sản xuất vật liệu xây dựng thông thường.

Hiện nay quy trình khai thác và kinh doanh đá của Công ty CP Khoáng sản An Khánh đang áp dụng như sau:

Sau công đoạn nổ mìn sẽ thu được sản phẩm đá xô bồ (đá nguyên khai chưa qua công đoạn chế biến, đập, sàng, nghiền thành đá dăm các ly khác nhau). Công ty có bán một phần sản lượng đá xô bồ ra bên ngoài, số đá xô bồ còn lại đem đập, nghiền, sàng phân loại thành các ly có kích thước khác nhau đem bán cho khách theo nhu cầu.

Công ty đang thực hiện việc kê khai tính thuế tài nguyên phải nộp như sau:

- Thực hiện kê khai thuế tài nguyên hàng tháng.

- Sản lượng tính thuế: Là sản lượng đá xô bồ (đá sau nổ mìn).

- Giá tính thuế tài nguyên: Áp giá tính thuế theo giá bán sản phẩm đá xô bồ, nhưng không thấp hơn giá bán quy định của UBND tỉnh Thái Nguyên.

Công ty CP Khoáng sản An Khánh hỏi, Công ty có thực hiện như vậy có đúng theo quy định của Nhà nước về tính thuế tài nguyên không? Khi quyết toán thuế tài nguyên thì Công ty xác định giá tính thuế tài nguyên như thế nào?

Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

Tại Điều 5 Luật Thuế tài nguyên quy định:

“Điều 5. Sản lượng tài nguyên tính thuế

1. Đối với tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế.

2. Đối với tài nguyên khai thác chưa xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thực tế khai thác do chứa nhiều chất, tạp chất khác nhau thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của từng chất thu được sau khi sàng tuyển, phân loại.

3. Đối với tài nguyên khai thác không bán mà đưa vào sản xuất sản phẩm khác nếu không trực tiếp xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thực tế khai thác thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định căn cứ vào sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ tính thuế và định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm…”.

Tại Khoản 1, Khoản 3, Điều 5 Thông tư số 152/2015/TT-BTC ngày 2/10/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên như sau:

“1. Đối với loại tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế.

Trường hợp tài nguyên khai thác thu được sản phẩm tài nguyên có nhiều cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại khác nhau thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo sản lượng từng loại tài nguyên có cùng cấp độ, chất lượng, giá trị thương mại như nhau hoặc quy ra sản lượng của loại tài nguyên có sản lượng bán ra lớn nhất để làm căn cứ xác định sản lượng tính thuế cho toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong kỳ.

Ví dụ 1: Doanh nghiệp A khai thác đá sau nổ mìn, khai thác thu được đá hộc, đá dăm các ly khác nhau thì được phân loại theo từng cấp độ, chất lượng từng loại đá thu được để xác định sản lượng đá tính thuế của mỗi loại.

Trường hợp, doanh nghiệp A có bán một phần sản lượng đá hộc, số đá hộc, đá dăm còn lại được đưa vào đập, nghiền thành các loại đá dăm có các cỡ (ly) khác nhau thì sản lượng tính thuế được xác định bằng cách quy từ sản lượng đá các cỡ (ly) ra sản lượng đá có sản lượng bán ra lớn nhất để xác định sản lượng đá thực tế khai thác để tính thuế tài nguyên.

Doanh nghiệp A thực hiện khai, nộp thuế đối với sản lượng đá khai thác theo giá bán tương ứng…

3. Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu) thì sản lượng tài nguyên tính thuế được xác định như sau:

Đối với tài nguyên khai thác không bán ra mà phải qua sản xuất, chế biến mới bán ra (tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu) thì sản lượng tài nguyên tính thuế là sản lượng tài nguyên khai thác được xác định bằng cách quy đổi từ sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ để bán ra theo định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm. Định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm do người nộp thuế kê khai căn cứ dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tiêu chuẩn công nghệ thiết kế để sản xuất sản phẩm đang ứng dụng, trong đó:

- Trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên thì căn cứ định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm tài nguyên sản xuất bán ra…”.

Tại Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế tài nguyên (đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 4, Điều 4 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ), quy định:

“4. UBND cấp tỉnh quy định cụ thể giá tính thuế tài nguyên quy định tại Khoản 2, Điểm b, Khoản 3 Điều này…

Căn cứ giá tính thuế tài nguyên đã xác định để áp dụng sản lượng tính thuế đối với đơn vị tài nguyên tương ứng. Giá tính thuế đối với tài nguyên khai thác được xác định ở khâu nào thì sản lượng tính thuế tài nguyên áp dụng tại khâu đó”.

Tại Điều 6 Thông tư số 152/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn:

“Điều 6. Giá tính thuế tài nguyên

Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định; trường hợp giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thấp hơn giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định thì tính thuế tài nguyên theo giá do UBND cấp tỉnh quy định…

1. Đối với loại tài nguyên xác định được giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên

Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên có cùng phẩm cấp, chất lượng chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng và được áp dụng cho toàn bộ sản lượng tài nguyên khai thác trong tháng; giá bán của một đơn vị tài nguyên được tính bằng tổng doanh thu (chưa có thuế giá trị gia tăng) của loại tài nguyên bán ra chia cho tổng sản lượng tài nguyên tương ứng bán ra trong tháng…”.

Căn cứ quy định trên, trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh khai thác đá làm vật liệu xây dựng thông thường, sau nổ mìn được bán ra, một phần đưa vào xay, nghiền thành sản phẩm đá các ly mới bán ra thì việc xác định sản lượng và giá tính thuế tài nguyên, kê khai thuế trong kỳ như sau:

- Trường hợp đá khai thác sau nổ mìn, được phân loại theo sản lượng của từng loại đá như: Đá hộc, đá dăm các loại và được bán ra thì áp dụng giá bán đơn vị của từng loại đá để xác định giá tính thuế tài nguyên cho toàn bộ sản lượng đá cùng loại thu được trong kỳ (gồm: Sản lượng đá sau khai thác thu được qua phân loại và sản lượng đá đưa vào xay nghiền thu được trong kỳ, không phân biệt đã tiêu thụ hết hay tồn kho), nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên đơn vị của mỗi loại đá do UBND cấp tỉnh quy định.

- Trường hợp đá khai thác sau nổ mìn, được đưa vào xay, nghiền, phân loại sản phẩm đá các ly (đá dăm các loại) mới bán ra thì áp dụng giá bán đơn vị của từng loại đá bán ra để xác định giá tính thuế tài nguyên cho sản lượng từng loại đá thu được qua xay, nghiền, phân loại, nhưng không được thấp hơn giá tính thuế tài nguyên đơn vị của mỗi loại đá do UBND cấp tỉnh quy định.

Đề nghị Công ty CP Khoáng sản An Khánh liên hệ với cơ quan thuế địa phương để được hướng dẫn thực hiện.

Theo Chinhphu.vn
Ý kiến bạn đọc (0)