Thứ 5, 04/09/2025 | English | Vietnamese
01:05:00 PM GMT+7Thứ 4, 03/09/2025
Theo ông Phạm Quang Vinh, Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, ngoại giao đã góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong kỷ nguyên phát triển mới, ngoại giao luôn sẵn sàng làm cầu nối giúp doanh nghiệp Việt Nam giao thương với bạn bè quốc tế.
- Nhân dịp kỉ niệm 80 năm thành lập ngành ngoại giao, ông đánh giá ngoại giao đã đóng góp như thế nào cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước 80 năm qua?
Đại sứ Phạm Quang Vinh: Ngoại giao Việt Nam luôn đồng hành với sự nghiệp chung của dân tộc. Từ khi nước ta đấu tranh giành độc lập, đến giai đoạn bị bao vây, cấm vận sau thống nhất, cho tới thời kỳ hội nhập quốc tế, đều có đóng góp của ngành ngoại giao.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại đã đóng vai trò tiên phong, mở đường cho tiến trình hội nhập của Việt Nam. Bước đi đầu tiên là khi nước ta tham gia Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN, đồng nghĩa với việc gia nhập “cuộc chơi” của kinh tế thị trường và các tập quán thương mại quốc tế. Tiếp đó ta có một loạt những thỏa thuận quan trọng, chẳng hạn như ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ năm 2001, rồi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007.
Bên cạnh đó, Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế ở mức độ sâu rộng và toàn diện hơn. Nhìn lại có thể thấy thời gian đầu chúng ta hội nhập kinh tế đơn giản là theo chiều rộng, tức là làm sao để hạ thuế quan và tăng cường buôn bán. Tuy nhiên, sau này chúng ta đã tham gia những hiệp định thương mại tự do có chất lượng và tiêu chuẩn cao hơn rất nhiều, có liên quan đến cả môi trường lao động, y tế, giáo dục,...
Như vậy, ngoại giao đã đưa nước ta hội nhập cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích rất quan trọng trong chuỗi cung ứng và nền kinh tế toàn cầu.
Để làm được điều đó, ngành ngoại giao đã phải nghiên cứu địa bàn, tìm kiếm các cơ hội hợp tác để tham mưu cho chính phủ, tư vấn cho địa phương và kết nối với các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới, ngoại giao kinh tế cũng phải chuyển mình, không chỉ dừng lại ở những cơ hội đầu tư, thương mại theo chiều rộng, mà còn phải theo chiều sâu dựa trên chất xám và đổi mới sáng tạo nhiều hơn. Ngoại giao cần chủ động nhận diện những rủi ro, nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, từ đó kịp thời tham mưu cho nước nhà, tư vấn cho doanh nghiệp và địa phương ứng phó hiệu quả với các vấn đề phát sinh.
Bên cạnh đó, câu chuyện đàm phán thuế quan với Mỹ vừa qua cũng cho thấy toàn bộ ngành đối ngoại phải cùng vào cuộc - từ ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế cho đến các bộ, ngành như Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cũ), Bộ Tài chính.
- Là nhà ngoại giao lâu năm, ông có thể chia sẻ một vài kỉ niệm đáng nhớ trong quá trình làm ngoại giao kinh tế?
Câu chuyện đầu tiên là quá trình tôi tham gia soạn thảo Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào những năm 2007-2009, tạo tiền đề cho Cộng đồng kinh tế ASEAN sau này. Khi đó Bộ Ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương và các bộ, ngành liên quan để thúc đẩy xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Mục tiêu không chỉ là hạ thuế quan mà còn nhằm xây dựng ASEAN thành một nền kinh tế có cơ sở sản xuất thống nhất, phát triển năng động, tăng liên kết nội khối cũng như gắn kết với thế giới.
Một câu chuyện nhỏ khác diễn ra trong thời gian tôi công tác tại Mỹ - câu chuyện về cá basa.
Khi ấy Mỹ áp dụng các chính sách bảo hộ, đặc biệt do các doanh nghiệp nuôi trồng cá tại các bang phía Nam thúc đẩy. Họ đã đệ trình Quốc hội Mỹ thông qua một đạo luật về trang trại, trong đó có một điều khoản quan trọng quy định rằng các nước xuất khẩu cá vào Mỹ phải đáp ứng điều kiện nuôi trồng thủy sản tương đương với tiêu chuẩn chất lượng nuôi trồng tại Mỹ.
Điều này đặt ra thách thức rất lớn, khiến doanh nghiệp Việt khó tiếp cận thị trường Mỹ hơn. Trước tình hình đó, Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ). Phía ta tính đến kịch bản bất lợi nhất là đạo luật được thông qua, nhưng vẫn cố tìm cách tranh thủ mọi thuận lợi tối đa cho mình.
Cuối cùng, Quốc hội Mỹ vì sức ép chính trị đã thông qua đạo luật. Tuy nhiên, nhờ chuẩn bị trước, ta đã tranh thủ được một gói viện trợ: phía Mỹ cấp vốn và cử chuyên gia kỹ thuật hỗ trợ ngư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long và ven biển, giúp nâng cao điều kiện và tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản của ta.
Phương án này được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tán thành. Kết quả là nhiều năm liền, Việt Nam nhận được hỗ trợ mà chưa phải chịu các điều kiện ràng buộc. Nhờ vậy, người dân cải thiện được mô hình nuôi trồng, và cá basa của ta vẫn tiếp tục vào được thị trường Mỹ.
Theo tôi, từ 2 câu chuyện trên có thể rút ra một bài học lớn: ngoại giao phục vụ kinh tế thực chất là quá trình hợp tác hai chiều.
Một mặt, nhờ nắm bắt thông tin và duy trì quan hệ thường xuyên với các đối tác làm ăn, người làm đối ngoại có thể kịp thời phát hiện cơ hội, nhận diện thay đổi chính sách hay những vấn đề phát sinh để báo cáo về trong nước. Mặt khác, để triển khai hiệu quả, ngoại giao kinh tế không thể tách rời mà phải gắn chặt với trong nước - gắn với chính phủ, các bộ ngành, địa phương và đặc biệt là doanh nghiệp.
- Từ câu chuyện cá ba sa ông vừa chia sẻ và các cuộc đàm phán thuế quan gần đây với Mỹ, Việt Nam cần chú ý những yếu tố nào khi thực hiện ngoại giao kinh tế với Washington, thưa ông?
Yêu cầu hàng đầu của chúng ta là không để chuỗi cung ứng bị đứt gãy. Với Mỹ hay bất kỳ đối tác nào, Việt Nam đều phải chủ động đàm phán để tìm giải pháp đôi bên cùng có lợi, đảm bảo không bị đứt gãy chuỗi cung ứng, từ đó tiếp tục thúc đẩy dòng chảy kinh tế - thương mại giữa hai nước. Đó là điều quan trọng nhất.
Thứ hai, trong quá trình thương lượng, chúng ta vừa phải biết đòi hỏi lợi ích chính đáng cho Việt Nam, vừa giải thích rằng mình làm ăn nghiêm túc theo luật pháp quốc tế và thông lệ thương mại toàn cầu. Đồng thời, cũng cần đưa ra những lời “chào hàng” có sức hấp dẫn đối với bạn hàng, trong trường hợp này là Mỹ.
Quá trình đàm phán với Mỹ vừa qua tuy chưa mang lại giải pháp thật sự mỹ mãn, nhưng đủ chấp nhận được để bảo đảm không làm đứt gãy quan hệ kinh tế giữa hai nước. Đồng thời, đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại một số bất cập trong bức tranh xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và với Mỹ nói riêng.
Bất cập đầu tiên là tỷ trọng thương mại của Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc chiếm quá lớn, khoảng 40% - 45%. Ta phải duy trì các thị trường này, nhưng cũng nhất thiết cần đa dạng hóa thị trường để giảm thiểu rủi ro.
Bất cập thứ hai là tỷ lệ giá trị gia tăng trong thương mại xuất nhập khẩu của Việt Nam còn chưa cao. Điều này cho thấy cần nâng cấp nền kinh tế để cơ cấu xuất nhập khẩu hướng tới phân khúc chất lượng cao hơn, mang lại giá trị gia tăng lớn hơn.
Bất cập thứ ba là khoảng 2/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đến từ khu vực FDI. Do đó, cần thúc đẩy các doanh nghiệp FDI không chỉ dừng ở gia công lao động, mà phải nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng. Đồng thời, cần xây dựng hệ sinh thái sản xuất, hậu cần, logistics để tăng hàm lượng nội địa Việt Nam trong hàng xuất khẩu.
Một điểm cần lưu ý nữa đó là nền kinh tế Việt Nam và Mỹ có tính bổ trợ, tương hỗ cho nhau. Những cái Mỹ cần thì Việt Nam xuất khẩu, và những cái Việt Nam xuất khẩu thì không cạnh tranh với hàng hoá nội địa Mỹ, mà chỉ phục vụ thêm cho người tiêu dùng Mỹ.
- Theo ông, trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị gay gắt hiện nay, Việt Nam cần ngoại giao kinh tế như thế nào để vừa tranh thủ lợi ích hợp tác, vừa duy trì cân bằng, độc lập, tự chủ?
Độc lập, tự chủ, không chỉ xoay quanh chính trị mà còn bao hàm nhiều yếu tố khác.
Trước hết, về chính trị, đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hóa quan hệ và dựa trên luật pháp quốc tế, hợp tác đôi bên cùng có lợi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nhờ đó, chúng ta tránh được sự cạnh tranh, cả về chính trị lẫn kinh tế, giữa các nước.
Về mặt kinh tế, không chỉ cạnh tranh nước lớn làm đứt gãy chuỗi cung ứng, mà nhiều khi các cuộc khủng hoảng dịch bệnh, thiên tai cũng gây ra gián đoạn. Vì vậy, chúng ta phải nâng cao năng lực nền kinh tế. Chỉ có nâng cao năng lực nền kinh tế thì mới có sức chống chịu tốt hơn trước những “cơn gió ngược” và cú sốc kinh tế thế giới.
Bên cạnh các đối tác chủ chốt, chúng ta còn nhiều dư địa để mở rộng sang các thị trường khác, tức là đa dạng hóa, tránh phụ thuộc vào một, hai thị trường. Cũng phải khai thác tốt hơn các hiệp định thương mại song phương và đa phương.
Thêm vào đó, tự chủ về kinh tế ngày nay còn phải dựa nhiều vào khoa học công nghệ. Thế giới đang chuyển đổi mạnh mẽ các mô hình phát triển và sản xuất. Việt Nam cần phải bắt kịp, đặc biệt là mô hình chuyển đổi dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Nếu không nâng cao hàm lượng các yếu tố này lên thì sức cạnh tranh của Việt Nam sẽ rất hạn chế.
Cuối cùng, thế giới ngày nay gắn kết chặt chẽ, bất cứ một thị trường nào thay đổi đều tác động đến rất nhiều những thành phần kinh tế khác. Cho nên đây không chỉ là câu chuyện của chính phủ với chính phủ, mà rõ ràng là các địa phương, các doanh nghiệp cũng phải chủ động rất nhiều trong việc thích ứng với hoàn cảnh mới và nâng cao nội lực của mình lên.
- Theo nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, ngoại giao kinh tế Việt Nam sẽ không chỉ dừng ở việc “đến sau”, “tham gia, gia nhập” mà còn kỳ vọng có thể “xây dựng và định hình” các khuôn khổ hợp tác. Theo ông, có những lĩnh vực tiềm năng nào mà Việt Nam có thể tham gia xây dựng luật chơi?
Năng lực kinh tế ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng, không chỉ đi sau, bắt kịp mà trên thực tế đã tham gia cùng kiến tạo. Tuy nhiên, chủ trương hiện nay đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh quá trình kiến tạo hơn nữa.
Thế giới đang chuyển đổi mô hình sản xuất và phát triển, vì vậy có rất nhiều điều mà các bên phải kiến tạo. Việt Nam cần tích cực tham gia vào quá trình này.
Chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ phụ thuộc rất nhiều vào quá trình thương lượng của các nước khi chuyển đổi mô hình. Chẳng hạn, châu Âu đã tích hợp các yếu tố về khí phát thải và biến đổi khí hậu vào quy trình đánh giá hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, quá trình thương lượng về biến đổi khí hậu và giảm khí phát thải không chỉ còn là yếu tố môi trường, mà còn là vấn đề về kinh tế và thị trường nữa. Do đó, việc Việt Nam tham gia vào tiến trình này cũng mang ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ hai, thế giới đang có nhu cầu rất lớn về cải tổ các hệ thống quản trị quốc tế. Nhiều tổ chức từ Liên hợp quốc, WTO, World Bank đến ASEAN hay APEC đều có sự thay đổi để thích ứng với các biến động về chính trị, kinh tế và khoa học - kỹ thuật. Vì vậy, Việt Nam có thể thể hiện vai trò kiến tạo và định hình bằng việc tham gia tích cực vào cải cách các thể chế quốc tế.
Thứ ba, với sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, nhiều khoảng trống trong quản trị toàn cầu xuất hiện. Chẳng hạn, nên quản trị trí tuệ nhân tạo như thế nào? Nhìn chung, những lĩnh vực còn khoảng trống về quản trị thì Việt Nam cần tham gia tích cực để cùng định hình.
Cuối cùng, Việt Nam phải luôn ủng hộ hợp tác cùng có lợi giữa các bên, dựa trên luật pháp quốc tế và các tập quán thông lệ quốc tế về kinh tế, thương mại và đầu tư.
- Doanh nghiệp không chỉ là đối tượng thụ hưởng, mà còn là chủ thể trực tiếp tham gia vào ngoại giao kinh tế. Ông có lời khuyên gì cho các doanh nghiệp Việt Nam để họ tham gia ngoại giao kinh tế một cách hiệu quả hơn?
Doanh nghiệp là người hiểu bản thân họ nhất. Doanh nghiệp hiểu rõ nhất về nhu cầu, thế mạnh của mình, nắm vững thực tiễn kinh tế trong nước và các quy định của nhà nước. Họ cũng am hiểu nhất về đối tác và bạn hàng của mình.
Do vậy, chính doanh nghiệp phải là người chủ động tham mưu cho chính phủ và các cơ quan đối ngoại để có thể tìm kiếm và kết nối với các đối tác nước ngoài. Trong bối cảnh quốc tế biến động, nếu gặp khó khăn thì doanh nghiệp chủ động gợi ý cho cơ quan đối ngoại cách trợ giúp; thấy cơ hội thì gợi ý cách khai thác.
Hiện nay, chính phủ Việt Nam đang tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân. Trước thời cơ này, doanh nghiệp cần nhận ra rằng họ có rất nhiều cơ hội làm ăn với bạn bè quốc tế. Trong quá trình làm ăn với đối tác nước ngoài, nếu doanh nghiệp gặp phải những khó khăn vượt ngoài phạm vi giải quyết của doanh nghiệp với nhau, thì người làm đối ngoại luôn sẵn sàng làm cầu nối giữa các bên liên quan.
Xin chân thành cảm ơn ông!
01:09:00 PM GMT+7Thứ 4, 03/09/2025
01:07:00 PM GMT+7Thứ 4, 03/09/2025
01:01:00 PM GMT+7Thứ 4, 03/09/2025
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
+ 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global