VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 4, 01/10/2025 | English | Vietnamese

Trang chủDoanh nghiệpNâng hạng tín nhiệm: Cơ hội cho ngân hàng Việt mở cánh cửa vốn rẻ

Nâng hạng tín nhiệm: Cơ hội cho ngân hàng Việt mở cánh cửa vốn rẻ

11:34:00 AM GMT+7Thứ 4, 01/10/2025

Tháng 8/2025, S&P Global Ratings nâng hạng tín nhiệm cho Vietcombank, Techcombank và Eximbank, đồng thời cải thiện đánh giá rủi ro ngành ngân hàng Việt Nam (BICRA) từ 9 lên 8. Đây là kết quả cộng hưởng giữa cải thiện nội lực ngân hàng và triển vọng tích cực của kinh tế vĩ mô. Nhằm làm rõ hơn ý nghĩa của việc nâng hạng tín nhiệm này, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance đã trao đổi với bà Bá Thị Thu Huệ, Giám đốc Thương mại FiinRatings.

Theo bà, việc các ngân hàng được nâng hạng do có sự cải thiện cơ bản trong năng lực tài chính của ngân hàng, hay chủ yếu nhờ bối cảnh vĩ mô và các gói hỗ trợ chính sách?

Bà Bá Thị Thu Huệ: Từ góc nhìn của chúng tôi, việc nâng hạng đó đến từ cả yếu tố sức mạnh nội tại của ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và các ngân hàng cụ thể được họ xếp hạng. Cụ thể, về đánh giá rủi ro ngành, S&P Global Ratings gần đây thực hiện nâng hạng tín nhiệm 3 ngân hàng thương mại (NHTM) của Việt Nam dựa trên cơ sở về việc điều chỉnh đánh giá Rủi ro hệ thống ngân hàng quốc gia (Banking Industry Country Risk Assessment, hay BICRA) từ mức điểm 9/10 lên mức 8/10 (mức điểm càng thấp thể hiện mức độ đánh giá rủi ro càng thấp).

Về đánh giá từng ngân hàng cụ thể được nâng hạng, việc mức điểm BICRA được cải thiện cũng trực tiếp ảnh hưởng tới đánh giá của S&P về tỷ lệ an toàn vốn điều chỉnh của các ngân hàng này (thông qua việc hệ số rủi ro của các tài sản được giảm), dẫn tới đánh giá về Hồ sơ vốn và Khả năng sinh lời (Capital and Earnings) của các ngân hàng này được tốt hơn.

Bên cạnh đó, đối với một số trường hợp cụ thể như của Vietcombank, việc được nâng hạng cũng đến từ sự cải thiện cơ bản trong năng lực tài chính của ngân hàng. S&P Global Ratings điều chỉnh nâng mức đánh giá về Vị thế rủi ro (Risk Position) của Vietcombank, phản ánh quan điểm về hồ sơ rủi ro của Vietcombank sẽ duy trì ổn định bất chấp những biến động của kinh tế vĩ mô. Theo S&P, trong 12-24 tháng tới, tỷ lệ nợ xấu có thể tăng nhẹ lên khoảng 1,2%, song vẫn thấp đáng kể so với mức trung bình 4,0%-5,0% của ngành ngân hàng. Bên cạnh đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 200% giúp Vietcombank duy trì nguồn dự phòng dồi dào, đủ để hấp thụ các khoản lỗ có thể phát sinh liên quan tới rủi ro tín dụng.

Theo bà, việc được nâng hạng tín nhiệm mang lại lợi thế cụ thể nào cho các ngân hàng trong việc huy động vốn quốc tế, phát hành trái phiếu, hay hợp tác với các tổ chức tài chính toàn cầu?Việc nâng hạng tín nhiệm của các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ tạo ra những lợi thế quan trọng trong việc huy động vốn trên thị trường nợ quốc tế.

Bà Bá Thị Thu Huệ: Trước hết, việc này sẽ làm tiền đề để các ngân hàng có thể huy động vốn với chi phí rẻ hơn, bởi vì mức bù rủi ro của các ngân hàng này sẽ giảm xuống khi xếp hạng tín nhiệm được cải thiện. Điều này góp phần tối ưu chi phí huy động vốn, giúp các ngân hàng cạnh tranh hiệu quả hơn trên thị trường quốc tế. Cụ thể, trong bối cảnh dự kiến Fed Fund Rate sẽ giảm (hiện ở mức khoảng 4,5% tính theo USD), việc nâng hạng tín nhiệm sẽ giúp các ngân hàng có thể tận dụng các cơ hội huy động vốn với chi phí thấp nếu FED thực hiện giảm lãi suất cơ bản 0,25% như kỳ vọng hoặc sẽ tốt hơn nữa nếu giảm 0,5%.

Bà Bá Thị Thu Huệ, Giám đốc Thương mại FiinRatings.

Bên cạnh đó, hoạt động tham chiếu đến xếp hạng tín nhiệm quốc tế không chỉ dừng lại ở hoạt động huy động vốn nợ mà còn giúp ích cho các ngân hàng thương mại này trong hoạt động ngân hàng đại lý hoặc có quan hệ tiền gửi bởi các ngân hàng đối tác quốc tế.

Hơn nữa, theo chúng tôi biết, nhiều NHTM của Việt Nam hiện tài trợ thương mại cho nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam ngoài các hoạt động bảo lãnh hoặc thư tín dụng mang tính truyền thống. Việc xác định rủi ro đối tác cũng có sự tham chiếu đến mức xếp hạng tín nhiệm quốc tế về các NHTM đối tác của Việt Nam và do đó, việc nâng xếp hạng tín nhiệm sẽ góp phần nhất định thuận lợi cho giao dịch thương mại xuyên biên giới trong một nền kinh tế có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn như Việt Nam.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các ngân hàng Việt Nam vẫn bị áp trần trong xếp hạng tín nhiệm quốc gia (hiện ở mức BB+ theo S&P). Nếu trong tương lai, xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam được cải thiện, lợi ích của việc nâng hạng ngân hàng thương mại sẽ càng rõ ràng hơn nữa. Điều này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách về chi phí vốn so với các doanh nghiệp hoặc ngân hàng trong khu vực, cũng như cạnh tranh trực tiếp với các quốc gia khác trong khu vực có các lợi thế về xếp hạng tín nhiệm cao hơn, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành ngân hàng Việt Nam.

Theo nghiên cứu của chúng tôi, các doanh nghiệp đầu ngành của Việt Nam vẫn phải chịu mức chi phí huy động vốn trên thị trường nợ quốc tế cao hơn đáng kể so với một doanh nghiệp tương đồng tại một số nước trong khu vực như Indonesia, Philippines, Malaysia hay Thái Lan do các nước này đều có mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia cao hơn của Việt Nam.

Bà vừa đề cập đến câu chuyện xếp hạng tín nhiệm (XHTN) quốc gia của các nước khác trong khu vực cao hơn của Việt Nam. Vậy theo bà, đâu là rào cản khiến xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam chưa thể “bật lên” mức cao hơn?

Bà Bá Thị Thu Huệ: Theo đánh giá của S&P Global Ratings, có khá nhiều tiêu chí có thể giải thích tại sao mức điểm XHTN quốc gia (và là “mức trần” cho XHTN của tất cả tổ chức phát hành trong nước bao gồm cả các ngân hàng) hiện đang ở mức tương đối khiêm tốn. Tuy nhiên, theo góc nhìn của chúng tôi, có 2 lý do chính:

Thứ nhất là về những giới hạn nhất định trong môi trường kinh tế vĩ mô. Việt Nam vẫn được xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở mức BB+, thấp hơn các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia. Nguyên nhân nằm ở mức độ phát triển của thị trường vốn còn hạn chế, khung pháp lý và khả năng thực thi chính sách chưa đồng bộ, cùng với các yếu tố như tính minh bạch trong công bố thông tin. Bên cạnh đó, tỷ lệ tín dụng (credit)/GDP của Việt Nam hiện ở mức rất cao so với nhiều quốc gia khác, trong khi thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức khiêm tốn, khiến khả năng hấp thụ vốn và năng lực trả nợ của nền kinh tế còn hạn chế. Đây là những rào cản mang tính nền tảng khiến XHTN quốc gia chưa thể “bật lên” mức cao hơn.

Thứ hai là về bộ đệm vốn của các ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng chống chịu rủi ro khi xảy ra rủi ro tín dụng. Theo đánh giá của S&P Global Ratings, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) trung bình của nhiều ngân hàng Việt Nam vẫn đang ở mức khiêm tốn (12,4% vào cuối năm 2024), thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc (15,6%), Thái Lan (20,5%), Campuchia (22,6%), trong khi áp lực về nợ xấu và xử lý tài sản đảm bảo còn hiện hữu. Điều này được nhận định là mấu chốt, làm hạn chế những điểm mạnh của các ngân hàng khi so với các ngân hàng trong khu vực, ví dụ như khả năng sinh lời…

Với vai trò là đối tác chiến lược của S&P Global Ratings tại Việt Nam, theo FiinRatings, xếp hạng tín nhiệm nội địa có ý nghĩa bổ trợ như thế nào bên cạnh xếp hạng quốc tế, trong việc giúp doanh nghiệp và ngân hàng Việt Nam nâng cao uy tín, tiếp cận nhà đầu tư trong nước, đồng thời chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế?

Bà Bá Thị Thu Huệ: Mỗi hệ thống xếp hạng tín nhiệm thường được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Trong khi xếp hạng tín nhiệm quốc tế thường được sử dụng phục vụ các nhà đầu tư trên thị trường nợ quốc tế và chủ yếu bằng ngoại tệ như USD trong khi hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội địa như FiinRatings của chúng tôi thì thiên hướng nhằm đáp ứng những quy định pháp lý của Việt Nam và phục vụ thị trường vốn nội địa và với công cụ nợ phát hành bằng VND.

Hệ thống thang điểm xếp hạng tín nhiệm nội địa có sự trải rộng hơn từ AAA đến C do không bị áp trần xếp hạng tín nhiệm quốc giá như thang điểm quốc tế nên sẽ thuận lợi hơn cho việc tham chiếu của thị trường với dải điểm rộng hơn và thể hiện rõ hơn sự khác biệt về chất lượng tín dụng của hàng hóa hoặc tổ chức phát hành.

Mặc dù xếp hạng tín nhiệm nội địa xuất hiện sau xếp hạng tín nhiệm quốc tế rất lâu, văn hóa xếp hạng tín nhiệm nội địa tại Việt Nam có tốc độ phát triển đáng kể. Riêng nhóm khách hàng của FiinRatings, chúng tôi đã xếp hạng và hỗ trợ hơn 70 doanh nghiệp thông qua xếp hạng tín nhiệm nội địa, trong khi tổng số doanh nghiệp được xếp hạng quốc tế ở Việt Nam chủ yếu vẫn xoay quanh các ngân hàng thương mại.

Theo chúng tôi, việc trải nghiệm xếp hạng tín nhiệm nội địa trước sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các ngân hàng nói riêng. Đây là cơ hội để làm quen với quy trình xếp hạng, đồng thời tích lũy kinh nghiệm trong việc chuẩn bị hồ sơ, trao đổi chuyên môn với các tổ chức xếp hạng, qua đó phản biện và thể hiện đầy đủ năng lực của mình. Quan trọng hơn, việc sử dụng xếp hạng tín nhiệm trong giao dịch và trao đổi thông tin với nhà đầu tư trong nước và khu vực sẽ giúp doanh nghiệp từng bước thích nghi, tạo nền tảng vững chắc để sau này, khi tiếp cận xếp hạng tín nhiệm quốc tế, họ có thể tự tin hơn trong việc khai thác thị trường vốn toàn cầu.

TheoKhánh Tú (Tạp chí điện tử Đầu tư Tài chính)
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global