VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 3, 14/10/2025 | English | Vietnamese

Trang chủDoanh nghiệpDấu ấn FDI và khát vọng sánh vai của doanh nhân Việt

Dấu ấn FDI và khát vọng sánh vai của doanh nhân Việt

10:22:00 AM GMT+7Thứ 3, 14/10/2025

Doanh nhân Việt Nam trưởng thành một phần nhờ làm việc với doanh nhân FDI. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên phát triển mới, doanh nghiệp trong nước cần được tạo điều kiện để phát triển lớn mạnh, khi đó doanh nhân FDI sẽ chuyển từ “nhà đầu tư vốn” sang “đối tác phát triển”.

FDI góp phần quan trọng tái cơ cấu nền kinh tế

Trong hơn 35 năm thu hút đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam trong từng thời kỳ, góp phần đáng kể trong việc thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Nếu như trong giai đoạn đầu khi những khu chế xuất và khu công nghiệp đầu tiên được hình thành, các dự án FDI phần lớn là sản xuất gia công và tận dụng chi phí lao động rẻ của Việt Nam thì theo thời gian, mô hình doanh nghiệp FDI đã liên tục nâng cấp – từ “lắp ráp đơn giản” sang “chế biến, chế tạo”, rồi đến “mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu” như hiện nay.

Ông Ngô Nghị Cương - Giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Đầu tư C+.

Luỹ kế đến cuối tháng 6 năm 2025, vốn FDI đăng ký còn hiệu lực là hơn 519,5 tỷ USD so với vốn FDI đăng ký năm 1991 là 1,3 tỷ USD - một bước nhảy vọt gấp hơn 400 lần sau 35 năm. FDI hiện nay chiếm khoảng 18% – 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra hơn 5 triệu việc làm. Ở mặt xuất khẩu, các doanh nghiệp FDI đang là trụ cột, đóng góp hơn 70% kim ngạch xuất khẩu.

Trong công cuộc công nghiệp hoá, dấu ấn rõ nét nhất của doanh nghiệp FDI là góp phần phát triển các ngành công nghiệp sản xuất mới, hiện đại. Khu vực FDI đã đưa vào nền kinh tế Việt Nam cả công cụ sản xuất tiên tiến và phương thức sản xuất mới. Không kể các doanh nghiệp nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân được nâng cao năng lực sản xuất và đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại một phần nhờ hợp tác với khu vực FDI.

Dễ thấy nhất ở ngành công nghiệp sản xuất xe đạp, xe máy và lắp ráp ô tô. Trước đây, trong nước chỉ có những cơ sở sản xuất xe đạp quy mô rất nhỏ, chủ yếu là gia công và sửa chữa linh kiện. Sự xuất hiện của những nhà máy sản xuất hiện đại của Toyota, Honda, SYM đã thay đổi ngành công nghiệp này. Từ đó, nhiều doanh nghiệp trong ngành nay đã phát triển thành những tập đoàn sản xuất đầu ngành, có thương hiệu trong nước như Thaco, Samco, Thành Công và có cả thương hiệu vươn ra thế giới như VinFast.

Khu vực FDI cũng góp phần phát triển nhiều khu công nghiệp và đô thị hiện đại ở Việt Nam. Những khu công nghiệp do FDI đầu tư được quy hoạch bài bản từ giao thông kết nối, hạ tầng kỹ thuật, tiện ích nội khu đến các dịch vụ phục vụ cho sản xuất. Mô hình tích hợp khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ cũng do các doanh nghiệp FDI liên doanh với doanh nghiệp trong nước phát triển đầu tiên.

Là khu vực đóng góp lớn nhất vào xuất khẩu, các doanh nghiệp FDI cũng đã giúp Việt Nam hội nhập rộng và sâu vào thương mại quốc tế. Sự hiện diện ngày càng nhiều của các doanh nghiệp FDI góp phần thúc đẩy Việt Nam tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) và gia nhập nhiều tổ chức kinh tế quốc tế.

Với 17 hiệp định thương mại tự do Việt Nam đang ký kết và có hiệu lực, các doanh nghiệp trong nước và FDI có cơ hội tiếp cận với hơn 60 nền kinh tế, chiếm gần 90% GDP toàn cầu. Điều này không chỉ giúp Việt Nam có cơ hội chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thành công mà còn cho phép chúng ta hoạch định phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn trong xu hướng phát triển của thế giới.

Dấu ấn doanh nhân FDI

Trong 20 năm làm việc với các doanh nhân FDI ở nhiều vai trò khác nhau, tôi vừa học hỏi được từ họ cách quản trị doanh nghiệp và đặt tầm nhìn chiến lược dài hạn, vừa chia sẻ lại với họ văn hoá kinh doanh bản địa, cách tiếp cận và gắn kết với xã hội địa phương.

Nói về những đóng góp của doanh nhân FDI, trước hết phải nhắc đến văn hoá quản trị và tuân thủ pháp luật. Các doanh nhân nước ngoài đa phần được đào tạo quản trị doanh nghiệp bài bản, không phải chỉ đơn thuần là quản lý. Họ cũng có lợi thế về áp dụng những mô hình quản trị tiên tiến được công nghệ hỗ trợ và quy trình chuyên nghiệp. Trong quá trình làm việc chung, nếu chú ý quan sát và ứng dụng những điều này thì đây cũng là một phần có thể gọi là được chuyển giao từ khu vực FDI.

Nhiều cải cách thể chế của Việt Nam xuất phát từ việc tuân thủ pháp luật trong kinh doanh của khối FDI cũng như yêu cầu thực tiễn trong thu hút đầu tư nước ngoài. Cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài đã có những ý kiến và đóng góp cho nhiều quy định pháp luật của Việt Nam như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, hay gần nhất là Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân... Các tiêu chuẩn quốc tế mới trong kinh doanh như chính sách về Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) hay Các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) cũng được các doanh nhân FDI tiên phong xúc tiến áp dụng cho doanh nghiệp của mình.

Ở chiều ngược lại, các doanh nhân FDI khi làm việc ở Việt Nam đều phải làm quen với văn bản kinh doanh Việt, đặc biệt là cần biết cách gắn kết với cộng đồng địa phương. Tôi có những người bạn – doanh nhân FDI – đã thành công tại Việt Nam. Họ chủ động học và đã giao tiếp tốt tiếng Việt sau vài năm làm việc ở đây. Các doanh nhân này cũng chú trọng việc gắn kết với cộng đồng nơi doanh nghiệp họ đầu tư và tham gia vào các hoạt động công tác xã hội.

Cá nhân tôi cho rằng doanh nhân dẫn dắt doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trưởng thành một phần nhờ làm việc và hợp tác làm ăn với doanh nhân FDI. Khi được tiếp cận với hệ thống quản trị toàn cầu, cách xây dựng chiến lược dài hạn, và phát triển dựa trên nhiều chỉ số nhưng đo lường được, các doanh nhân Việt sẽ có những mô hình để tham khảo, có thể chọn lọc ứng dụng cho việc phát triển ra thị trường quốc tế.

Như công ty chúng tôi hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ - tư vấn đầu tư - cũng nhìn vào những tập đoàn nước ngoài cùng ngành đang hoạt động tại Việt Nam để xem mô hình phát triển và quản trị của họ thế nào, cách họ ứng phó với những biến động của ngành, của sự trỗi dậy của AI ra sao mà soi chiếu định hướng phát triển. Tôi thường tự hỏi “Làm sao để phát triển được như họ sau 5, 10 năm?”

Doanh nghiệp Việt cần được trao thêm cơ hội

Tôi muốn nói về phía ta – doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam - trước vì để gọi là “đối tác” thì vị thế của đôi bên phải tương đối ngang bằng, bên nào cũng cần bên kia.

Doanh nhân chúng tôi hiện đang hào hứng với những cơ hội mới từ Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, xem đây là vận hội lớn để các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ lớn mạnh mà còn tiến ra thị trường quốc tế. Chúng tôi không những cần những cơ chế hỗ trợ mà còn cần được nhà nước cho tham gia vào những dự án quốc gia hay những dự án hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài.

Chẳng hạn trong lĩnh vực tư vấn đầu tư nước ngoài, Chính phủ có thể đặt ra những tiêu chí nhất định cho phép các doanh nghiệp trong nước, với khoảng 95% là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), độc lập hay liên kết lại hợp tác cùng với tư vấn nước ngoài thực hiện các dự án đầu tư vào Việt Nam - phần việc mà lâu nay thường chỉ có các tập đoàn tư vấn nước ngoài đảm nhiệm.

Đối với các dự án đầu tư công, nên có một cơ chế phân chia các gói thầu theo quy mô, tính chất và chuyên môn để đảm bảo các thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp SME, đều có cơ hội tham gia. Có như vậy, các doanh nghiệp trong nước mới có cơ hội phát triển và tham gia hợp tác với các doanh nghiệp FDI đầu ngành.

Ngoài ra, cũng cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Lâu nay, một số mặt hàng chủ lực được nhà nước hỗ trợ xuất khẩu nhưng ngành xuất khẩu dịch vụ lại bị bỏ quên. Nếu như việc xuất khẩu hàng hoá thu ngoại tệ về cho quốc gia thì việc xuất khẩu dịch vụ cũng là thu ngoại tệ về, nên cần được hỗ trợ và khuyến khích phát triển. Ở một số quốc gia, việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ nhận được nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ từ nhà nước.

Như thế, khi doanh nghiệp trong nước phát triển lớn mạnh, doanh nhân FDI sẽ chuyển từ “nhà đầu tư vốn” sang “đối tác phát triển”. Họ sẽ xem các doanh nghiệp trong nước là một đối tác kinh doanh cùng hợp tác phát triển. Quy định ngày một cao về tỷ trọng giá trị nội địa của hàng xuất khẩu để có Chứng chỉ xuất xứ (C/O) Việt Nam cũng có ý nghĩa thúc đẩy hợp tác phát triển giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.

Dĩ nhiên, vai trò nhà đầu tư của họ vẫn không thay đổi. Dòng vốn FDI bản chất luôn dịch chuyển và luôn tìm đến những nơi có hiệu suất đầu tư tốt hơn. Hơn nữa, phần lớn các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các tập đoàn lớn Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu, đều hoạt động theo mô hình tập đoàn đa quốc gia, trong đó nhiệm kỳ các tổng giám đốc được điều động đến Việt Nam làm việc thường là 3 - 5 năm, cá biệt có thể đến 7–8 năm. Cho nên việc gắn kết cần đi song hành, cả với cá nhân doanh nhân tại vị đó và với doanh nghiệp FDI.

Khi quan hệ hai bên đủ sâu, vị thế đối tác kinh doanh của các doanh nghiệp trong nuớc với các doanh nghiệp FDI càng vững chắc. Khi đó, doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể tận dụng ngược lại mối quan hệ của doanh nghiệp FDI mà mở rộng thị trường quốc tế, trở thành nhà đầu tư tại một thị trường mới. Đây cũng là một nội dung trong Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân.

TheoNgô Nghị Cương - Giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Đầu tư C+ / Tạp chí điện tử Đầu tư Tài chính
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global