VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 7, 08/11/2025 | English | Vietnamese

Trang chủTin VCCIThúc đẩy liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước: Yêu cầu bức thiết

Thúc đẩy liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước: Yêu cầu bức thiết

11:15:00 AM GMT+7Thứ 7, 08/11/2025

Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị (về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030) đã nhấn mạnh: "Phát triển mạnh mẽ liên kết giữa khu vực đầu tư nước ngoài với khu vực trong nước, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và vừa, để nâng cao năng lực nội sinh và sức cạnh tranh của nền kinh tế". Trong 6 năm qua, mặc dù đã có một số chuyển biến tích cực trong việc liên kết FDI với doanh nghiệp trong nước, nhưng kết quả còn cách xa kỳ vọng.

Một góc Khu công nghiệp Mỹ Phước 3. Ảnh: Quốc Chiến

Liên kết FDI với khu vực trong nước - động lực còn bỏ ngỏ

Qua hơn 35 năm thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam ngày càng trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn hàng đầu trong khu vực ASEAN. Đến nay, tại Việt Nam đã có hơn 39.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt trên 480 tỷ USD (tính đến giữa năm 2025). Khu vực FDI đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng 70-75% kim ngạch xuất khẩu, hàng triệu việc làm và 20% GDP.

Những đóng góp của FDI đối với tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế của Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, động lực từ liên kết khu vực FDI với doanh nghiệp trong nước dường như vẫn còn bỏ ngỏ. Tỷ lệ nội địa hóa mặc dù có xu hướng tăng nhưng vẫn còn rất thấp. Kết quả nghiên cứu mới đây của Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế, hiệp hội cho thấy, tỷ lệ nội địa hóa của ngành điện tử gia dụng chỉ đạt 30-35%, ngành viễn thông chỉ đạt 15% và công nghiệp ô tô chỉ đạt 10-20%.

Sự liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp nội địa với FDI chủ yếu ở mức cung ứng đơn giản như bao bì, linh kiện cơ khí nhỏ, dịch vụ vận tải hoặc ăn uống. Rất ít doanh nghiệp Việt Nam tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở tầng cao hơn – nơi quyết định giá trị gia tăng và lan tỏa công nghệ.

Tại các trung tâm công nghiệp lớn như Bắc Ninh, Thái Nguyên, TP.HCM hay Hà Nội, các tập đoàn FDI như Samsung, LG, Canon, Toyota, Foxconn… đã hình thành hệ sinh thái hàng trăm nhà cung cấp cấp 1 và cấp 2. Nhưng phần lớn trong số đó vẫn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Số doanh nghiệp Việt thuần túy đủ năng lực trở thành nhà cung ứng cấp 1 chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Sự tập trung cao của FDI tại các khu công nghiệp ở một số địa phương bao gồm các doanh nghiệp FDI lắp ráp và doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng đang tạo ra một khu vực kinh tế FDI khá biệt lập với khu vực trong nước, tạo rủi ro đối với phát triển bền vững do lệ thuộc quá lớn vào FDI.

Nguyên nhân của sự liên kết "lỏng lẻo"

Sự thiếu liên kết giữa FDI với khu vực trong nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể ra các nguyên nhân chủ yếu sau đây.

Thứ nhất, mặc dù luật pháp chính sách về FDI đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn thiên lệch về thu hút, chưa có các công cụ đủ mạnh để chuyển sang giai đoạn "kết nối và lan tỏa". Chưa có cơ chế chính sách ưu đãi khuyến khích FDI hợp tác, liên kết doanh nghiệp Việt Nam, gắn với chuyển giao công nghệ. Trong các hình thức đầu tư, liên doanh được đánh giá là hình thức có khả năng tạo liên kết, chuyển giao công nghệ lớn nhất, nhưng phần lớn các dự án FDI lại được thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài.

Thứ hai, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được đề ra từ nhiều năm nay nhưng kết quả triển khai vẫn còn rất chậm, số lượng doanh nghiệp đủ năng lực để tham gia chuỗi cung ứng còn rất ít. Đa phần doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn nằm trong tình trạng thiếu công nghệ, vốn và nhân lực chất lượng cao để đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình quản trị, và yêu cầu khắt khe của chuỗi cung ứng FDI. Trong khi đó, nhiều tập đoàn FDI nhập khẩu gần như toàn bộ linh kiện từ mạng lưới toàn cầu sẵn có, ít có nhu cầu nội địa hóa.

Thứ ba, thiếu cơ chế kết nối hiệu quả giữa hai khu vực. Các hoạt động "kết nối cung – cầu công nghiệp" mới chỉ mang tính phong trào, chưa có thiết chế trung gian chuyên nghiệp đứng ra "gắn cầu" hai khu vực doanh nghiệp. Các cơ sở dữ liệu về năng lực doanh nghiệp Việt Nam rời rạc, thiếu cập nhật, khiến các nhà mua hàng và nhà cung cấp khó tìm thấy nhau. Theo khảo sát mới đây của Jetro, chỉ khoảng 36% doanh nghiệp FDI tại Việt Nam mua nguyên liệu, linh kiện trong nước, thấp hơn nhiều so với mức 60-70% tại Thái Lan hay Malaysia.

Thứ tư, thiếu sự chủ động từ phía doanh nghiệp trong nước. Không ít doanh nghiệp Việt Nam còn tư duy ngắn hạn, ngại đầu tư đổi mới công nghệ hoặc tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất để đủ điều kiện hợp tác. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp Việt với các trung tâm hỗ trợ công nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học cũng còn yếu.

Bốn nhóm giải pháp cần được triển khai mạnh mẽ

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và chính sách khuyến khích liên kết. Cần chuyển trọng tâm chính sách thu hút FDI từ "số lượng" sang "chất lượng", từ "biệt lập" sang "liên kết gắn với chuyển giao công nghệ". Trong quá trình sửa đổi Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, các luật về thuế và các văn bản hướng dẫn, cần bổ sung các điều khoản khuyến khích, ưu đãi các dự án FDI quy mô lớn, công nghệ cao hợp tác với doanh nghiệp trong nước theo tiêu chí tỷ lệ nội địa hóa, đặc biệt là tỷ lệ hàng hóa được cung cấp bởi các doanh nghiệp thuần Việt. Các chính sách ưu đãi chỉ được thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá định kỳ về tỷ lệ nội địa hóa.

Chính phủ có thể xem xét ưu đãi bổ sung cho các doanh nghiệp FDI đầu tư theo hình thức liên doanh, các cấp trung gian có tỷ lệ nội địa hóa cao, có các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) và chương trình chuyển giao công nghệ, hoặc hỗ trợ đào tạo nhà cung ứng Việt Nam. Đồng thời, xây dựng cơ chế giám sát và tôn vinh các điển hình FDI liên kết hiệu quả.

Thứ hai, phát triển hệ sinh thái hỗ trợ công nghiệp trong nước. Các địa phương – đặc biệt là những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương – cần xây dựng các trung tâm hỗ trợ công nghiệp hiện đại: tư vấn kỹ thuật, đánh giá năng lực doanh nghiệp, đào tạo tiêu chuẩn ISO, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, và xúc tiến hợp tác với các tập đoàn FDI đang hoạt động tại khu vực.

Song song đó, hình thành mạng lưới cơ sở dữ liệu số quốc gia về doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, giúp nhà đầu tư tra cứu, kết nối nhanh chóng, giảm chi phí giao dịch và rủi ro.

Thứ ba, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp Việt phải được tiếp sức thực chất thông qua các chương trình tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đổi mới công nghệ, phát triển nhân lực và quản trị hiện đại. Chính phủ có thể xây dựng Quỹ phát triển nhà cung ứng nội địa, tương tự các mô hình của Hàn Quốc và Nhật Bản, để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cấp dây chuyền sản xuất, thử nghiệm mẫu, và đạt chứng nhận quốc tế.

Cùng với đó, cần đẩy mạnh kết nối giữa doanh nghiệp – viện nghiên cứu – trường đại học, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt tiếp cận công nghệ mới, tham gia nghiên cứu phát triển (R&D) cùng các tập đoàn FDI.

Thứ tư, phát huy vai trò chủ động của các hiệp hội và chính quyền địa phương. Các hiệp hội ngành nghề và các tổ chức đại diện cộng đồng doanh nghiệp cần được giao nhiệm vụ và tạo điều kiện để có thể đóng vai trò "nhạc trưởng" trong việc kết nối, chia sẻ thông tin, tổ chức diễn đàn hợp tác FDI – doanh nghiệp nội địa. Những chương trình như "Ngày hội nhà cung ứng Việt Nam", "Diễn đàn kết nối chuỗi cung ứng công nghiệp", hay giải thưởng tôn vinh các doanh nghiệp FDI cần được tổ chức thường xuyên, có sự bảo trợ của các bộ, ngành và chính quyền địa phương.

Đồng thời, các UBND tỉnh, thành phố cần gắn mục tiêu liên kết FDI với doanh nghiệp nội trong chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thu hút đầu tư, thay vì chỉ dựa vào vốn đăng ký hay kim ngạch xuất khẩu như hiện nay.

Chặng đường phát triển mới của đất nước với mục tiêu trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2045 đòi hỏi phải tiếp tục thu hút FDI, nhưng phải là FDI thế hệ mới. Đó là FDI chất lượng cao, công nghệ cao, gắn với tăng trưởng xanh, chuyển giao công nghệ và liên kết chặt chẽ với khu vực trong nước.

Chỉ khi doanh nghiệp trong nước thực sự "bắt tay" được với doanh nghiệp FDI trong cùng chuỗi sản xuất – từ linh kiện, dịch vụ kỹ thuật, logistics đến R&D – thì lúc đó, FDI mới trở thành động lực nội sinh của nền kinh tế Việt Nam. Và đó cũng chính là yếu tố đảm bảo cho nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và tự cường trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

TheoTS. NGUYỄN ANH TUẤN (Tạp chí điện tử Nhà đầu tư)
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Kim Liên, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global