
Thứ 6, 31/10/2025 | English | Vietnamese
10:06:00 AM GMT+7Thứ 6, 31/10/2025
Hội thảo "Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị" nhằm góp phần tuyên truyền, tổ chức thực hiện Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Sáng 30/10, tại Hà Nội, Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức Hội thảo "Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị". Sự kiện là diễn đàn để các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, nhà đầu tư chia sẻ chiến lược về phát triển năng lượng xanh, chuyển đổi năng lượng xanh, đề xuất các chính sách nhằm phát triển bền vững lĩnh vực này.
Tham dự hội thảo hôm nay, về phía lãnh đạo các bộ ban ngành ở Trung ương gồm: Ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Uỷ ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội; ông Trần Hoài Trang, Cục phó Cục Điện lực, Bộ Công Thương; bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước; bà Phạm Thị Thuỳ Linh, Trưởng ban Phát triển thị trường chứng khoán, UBCKNN.
 
Về phía các chuyên gia, diễn giả, có sự tham dự của: PGS-TS. Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng, ĐH Bách khoa Hà Nội; TS. Nguyễn Thanh Hải, Chuyên gia Kinh tế Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ); ông Phùng Xuân Minh, Chủ tịch Saigon Ratings; PGS-TS. Trần Việt Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học, Học viện Ngân hàng; TS. Lê Đức Khánh, Giám đốc Phân tích đầu tư, CTCP Chứng khoán VPS....
Về phía lãnh đạo các Hiệp hội và lãnh đạo các doanh nghiệp có sự tham dự của: Ông Nguyễn Thái Sơn, Phó Chủ tịch thường trực, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, ông Nguyễn Tài Anh, Phó TGĐ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN); ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng Ban Chính sách Tín dụng, Ngân hàng Agribank; ông Nguyễn Đức Hữu, Giám đốc Kinh doanh đối tác Miền Bắc Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB); ông Trần Hoài Nam, Phó Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp - Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank); bà Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, Giám đốc Quản lý Dự án quốc tế, Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB); ông Nguyễn Lê Thăng Long, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn An Phát Holdings... cùng đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, nhà đầu tư.
Về phía cơ quan chủ quản của Tạp chí Nhà đầu tư - Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: TS Nguyễn Anh Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, cùng các vị Phó chủ tịch, Tổng thư ký. Về phía Ban tổ chức: Nhà báo Phạm Đức Sơn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư, Trưởng ban tổ chức hội thảo; nhà báo Nguyễn Phong Cầm, Phó Tổng biên tập Thường trực; nhà báo Võ Tá Quỳnh, Phó tổng biên tập. Hội thảo còn có sự tham dự của lãnh đạo và phóng viên một số cơ quan báo chí, truyền hình Trung ương và Hà Nội.
Phát biểu khai mạc hội thảo, nhà báo Phạm Đức Sơn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư/Nhadautu.vn cho biết, ngày 20/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nghị quyết 70 xác định rõ quan điểm: Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch. Từng bước chuyển đổi năng lượng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và cam kết quốc tế.
Bộ Chính trị nêu rõ nhiều giải pháp trọng tâm: “Hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào các dự án trong lĩnh vực năng lượng theo hình thức nhà đầu tư độc lập hoặc đối tác công tư (PPP); Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng linh hoạt, hiệu quả, ưu tiên bố trí vốn tín dụng cho lĩnh vực năng lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn; có nguồn vốn, gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh, sạch, công nghệ mới; doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống dự trữ năng lượng, nghiên cứu, phát triển và sản xuất thiết bị năng lượng trong nước; Hoàn thiện chính sách thuế để khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và các trang thiết bị sản xuất trong nước. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện các dự án năng lượng phi lợi nhuận, thân thiện môi trường”.
 
Theo ông Phạm Đức Sơn, nhiệm vụ đặt ra hiện nay là thể chế hoá Nghị quyết 70, hoàn thiện và kiến tạo khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để nhanh chóng đưa đường lối, chính sách tiến bộ đột phá của Đảng vào cuộc sống.
Nhằm góp phần tuyền truyền, tổ chức thực hiện Nghị quyết 70, Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức Hội thảo“Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị”.
“Chúng tôi rất mong được lắng nghe các ý kiến tâm huyết từ lãnh đạo các bộ, ngành, chuyên gia, ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính quốc tế và cộng đồng nhà đầu tư, doanh nghiệp về thiết kế chính sách tín dụng ưu đãi, cơ chế khuyến khích đầu tư phục vụ tiến trình chuyển đổi năng lượng xanh của Việt Nam”, nhà báo Phạm Đức Sơn đề nghị.
THAM LUẬN
Tham dự Hội thảo, ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương cho biết trong giai đoạn 2026 - 2030 là 5 năm cuối thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, nên yêu cầu đặt ra phải có một tầm nhìn mới, tư duy mới, quan điểm phát triển mới cùng những giải pháp đột phá, quyết tâm cao để tăng trưởng nhanh và bền vững hơn.
 
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 8617/VPCP-CN, Bộ Công Thương đang xây dựng và hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10 năm 2025).
Tại Dự thảo Nghị quyết, Bộ Công Thương sẽ tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách theo hướng cụ thể như sau: 1. Kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn Đánh giá về sự cần thiết ban hành Nghị quyết, Bộ Công Thương nêu rõ trong giai đoạn 2026-2030, nhu cầu điện dự kiến sẽ tiếp tục tăng cao nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở mức hai con số, khả năng cung ứng điện phụ thuộc rất nhiều vào việc phát triển các nguồn điện chạy nền (nhiệt điện than, điện khí LNG) và nguồn điện năng lượng tái tạo, đặc biệt là các nguồn điện tại khu vực miền Bắc.
Nghị quyết số 70-NQ/TW cũng đã đề ra mục tiêu đến năm 2030 phải bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao, giảm phát thải cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái. Do đó, nếu không tháo gỡ kịp thời sẽ có nguy cơ thiếu điện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân, tác động lớn đến an ninh năng lượng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đã có Báo cáo về tình hình triển khai Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), báo cáo Thủ tướng Chính phủ về một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các dự án nguồn điện, lưới điện; các điểm nghẽn, bất cập về chính sách hiện nay và đề xuất giải pháp trong thời gian tới.
Tại Hội thảo, ông Trần Hoài Trang đã dành nhiều thời gian giới thiệu hồ sơ dự thảo Nghị quyết về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 với nhiều điểm mới trên tinh thần tiếp thu các quan điểm của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh năng lượng quốc gia.
Theo dự kiến, Nghị quyết quy định về một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030, bao gồm: Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong quy hoạch tỉnh; đầu tư xây dựng dự án điện lực; phát triển điện gió ngoài khơi; mua bán điện trực tiếp.
Nghị quyết sẽ áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động điện lực, sử dụng điện hoặc có hoạt động khác liên quan đến điện lực tại Việt Nam.
 
Cụ thể như sau - Nội dung về quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong quy hoạch tỉnh: quy định về việc điều chỉnh quy hoạch một cách linh hoạt nhằm đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cũng như khả thi trong quá trình thực hiện.
- Về đầu tư xây dựng dự án điện lực, dự thảo Nghị quyết sẽ cắt giảm một số thủ tục chuẩn bị đầu tư dự án điện lực (từ giai đoạn quy hoạch đến khi khởi công xây dựng công trình như chủ trương đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư,…).
Các quy định nhằm cắt giảm thời gian thực hiện và chi phí tuân thủ của nhà đầu tư thực hiện dự án điện lực. Việc cắt giảm sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện và sớm đưa các dự án điện lực đưa vào vận hành trong giai đoạn 2026 – 2030.
- Ngoài ra, dự thảo Nghị quyết cũng bổ sung một số cơ chế đặc thù áp dụng cho các dự án BOT điện nhằm đáp ứng được mong muốn của các nhà đầu tư và tăng tính hấp dẫn để thu hút được nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức tín dụng nước ngoài. Đồng thời, bổ sung quy định về cơ chế đặc thù vượt trội và tháo gỡ khó khăn cho các dự án nhiệt điện khí sử dụng khí LNG nhập khẩu, trong đó tập trung vào cơ chế sản lượng điện tối thiểu dài hạn và thời gian áp dụng.
Dự thảo còn đưa ra một số cơ chế ưu đãi đặc thù, vượt trội cho các dự án điện gió ngoài khơi được chấp thuận chủ trương đầu tư và đưa vào vận hành sớm trong giai đoạn 2030 – 2035. Đồng thời thúc đẩy cơ chế mua bán điện trực tiếp theo đúng tinh thần Nghị quyết số 70-NQ/TW về tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng.
"Bộ Công Thương rất hy vọng nếu Nghị quyết này được ban hành sẽ tạo một hành lang pháp lý thông thoáng, thúc đẩy phát triển các dự án nguồn điện, lưới điện nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu phụ tải của hệ thống điện trong bối cảnh đất nước đang vươn mình với mục tiêu tăng trưởng mỗi năm là hai con số giai đoạn 2026 – 2030", ông Trần Hoài Trang nhấn mạnh.
Tham dự Hội thảo, ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trình bày tham luận về vai trò và giải pháp của EVN trong triển khai Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị nhằm góp phần đạt mục tiêu giảm phát thải 15-35% đến năm 2030.
 
Theo đó, trong quá trình triển khai Nghị quyết 70, EVN giữ vai trò trụ cột, là doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc đảm bảo cung ứng điện cho sự phát triển kinh tế xã hội, hoạt động trong các lĩnh vực chính là sản xuất, truyền tải, phân phối và kinh doanh điện.
Ngay sau COP26, EVN đã chủ động phối hợp/hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để nghiên cứu xây dựng chiến lược chuyển dịch năng lượng của EVN; tiếp tục triển khai xây dựng kế hoạch, lộ trình chuyển dịch năng lượng theo tỷ lệ hợp lý các loại hình nguồn điện, phù hợp với mục tiêu, định hướng chỉ đạo của Chính phủ trong Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã được phê duyệt.
Trong bối cảnh hiện nay, EVN đã xác định rõ các định hướng chiến lược trong giai đoạn tới nhằm góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính trong hoạt động năng lượng từ 15–35% so với kịch bản phát triển thông thường đến năm 2030.
Đối với các nhà máy điện than đang vận hành, EVN đã và đang triển khai các giải pháp cải tạo, nâng cấp, ứng dụng công nghệ nâng cao hiệu suất, tích hợp hệ thống năng lượng tái tạo sử dụng trong nhà máy để giảm phát thải, đồng thời nghiên cứu các giải pháp/ phương án thực hiện và xây dựng lộ trình chuyển đổi nhiên liệu, kết hợp đốt trộn sinh khối, amoniac.
EVN đã triển khai thực hiện công tác truyền thông đồng bộ với hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng của toàn Tập đoàn. Trong đó, các nội dung, hình thức tuyên truyền trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, giảm phát thải đã luôn được quan tâm, chú trọng.
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết 70 và đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải 15–35% đến năm 2030, EVN đang và sẽ tập trung triển khai các nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất là nhóm giải pháp phát triển nguồn điện. EVN ưu tiên phát triển các nguồn điện sạch, như nhà máy điện hạt nhân, ít phát thải nhằm giảm phụ thuộc vào than và đáp ứng mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo. Nghiên cứu áp dụng các giải pháp trong việc thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch bằng các loại nhiên liệu ít phát thải hơn như hydrogen xanh, ammonia xanh, biomass,... EVN đã tham gia một số dự án thí điểm để làm khung cho việc phát triển các nguồn điện mới.
EVN cũng hợp tác với một số nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc để tăng hiệu suất cho các giải pháp này.
Thứ hai là nhóm giải pháp về phát triển lưới điện. EVN nghiên cứu giải pháp nâng cao năng lực truyền tải của lưới điện để tận dụng tối đa huy động các nguồn điện sạch cho hệ thống; xây dựng hệ thống truyền tải thông minh giúp tối ưu trong vận hành lưới điện, giảm thiểu sự cố, giảm tổn hao, góp phần giảm phát thải khí nhà kính; tích hợp hệ thống tích trữ năng lượng; xây dựng hệ thống truyền tải liên kết các nước trong khu vực.
Với khối lượng lớn, tổng chi phí đầu tư mỗi năm 3-4 tỷ USD, EVN một mình không thể nào gánh vác được. Nghị quyết 70 cho phép sự tham gia của nhiều tổ chức, doanh nghiệp khác.
Hệ thống điện VN tương đối lớn, thứ nhất Đông Nam Á và thứ 22 trên thế giới, nên việc quản lý lưới điện thông minh là rất quan trọng.
Thứ ba là nhóm giải pháp về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế. EVN nghiên cứu giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt trong phát triển nguồn - lưới điện gắn với chuyển dịch năng lượng; xây dựng, nghiên cứu phát triển các mục tiêu về khoa học công nghệ phù hợp, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong công tác quản lý vận hành theo từng giai đoạn phù hợp với lộ trình chuyển dịch năng lượng; ưu tiên sử dụng các công nghệ, thiết bị hiện đại có định mức tiêu hao thấp hiệu suất cao, thân thiện với môi trường; ứng dụng công nghệ số, Big Data, AI… để giám sát, quản lý và tối ưu hoá quy trình sản xuất.
Thứ tư là nhóm giải pháp về tiết kiệm năng lượng và quản lý phát thải. Chỉ số tiêu thụ năng lượng trên đầu người, trên GDP ở Việt Nam đứng ở nửa sau thế giới, nên còn nhiều dư địa để tiết kiệm năng lượng.
EVN coi tiết kiệm năng lượng là mệnh lệnh thời đại, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, địa phương, báo chí. Tiếp tục triển khai sâu rộng chương trình tiết kiệm điện, áp dụng điều chỉnh phụ tải và áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh; triển khai các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức về chuyển đổi xanh; tiếp tục thực hiện các chương trình truyền thông, tuyên truyền về tiết kiệm điện.
EVN tham gia kiểm kê phát thải khí nhà kính đối với các cơ sở thuộc danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; nghiên cứu và triển khai thí điểm các giải pháp thu hồi và lưu giữ carbon; chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để sẵn sàng tham gia thị trường giao dịch tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế.
Thứ năm là nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. EVN xây dựng yêu cầu về khung năng lực và chương trình phát triển nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu mới về công nghệ, quản trị của Tập đoàn.
Tập đoàn phối hợp với các bộ ngành, đối tác quốc tế để đào tạo chuyên sâu, chuẩn bị vận hành dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, trong đó có đối tác Rosatom (Nga).
Tập trung đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý và chuyên gia nòng cốt trong các lĩnh vực công nghệ năng lượng mới, vận hành lưới điện thông minh, quản lý dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng sạch,… EVN có kinh nghiệm e-learning, được phát huy hiệu quả trong toàn Tập đoàn.
Thứ sáu là nhóm giải pháp về thể chế, chính sách và huy động vốn. EVN rà soát, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch huy động vốn cho các dự án đầu tư theo chiến lược phát triển Tập đoàn, hợp tác huy động tối đa nguồn vốn của các tổ chức quốc tế đối với quản lý, đầu tư, vận hành phục vụ quá trình chuyển dịch năng lượng của EVN. Đề xuất các cơ chế chính sách tài chính, thu hút các nguồn vốn xanh, ưu đãi.
Tập đoàn đoàn huy động cho các dự án chiến lược, bao gồm JETP, triển khai tài chính xanh, thu hút vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính để giảm áp lực đầu tư cho vốn Nhà nước.

Để EVN có thể triển khai hiệu quả Nghị quyết 70, EVN có một số đề xuất kiến nghị như sau:
Thứ nhất, đối với Chính phủ và các bộ ngành, EVN đề xuất sớm hoàn thiện các quy định, hướng dẫn, khung pháp lý và bộ tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công nghệ năng lượng mới, như: điện gió ngoài khơi, lưu trữ năng lượng, công nghệ hydrogen, amoniac, biomass, thu hồi và lưu trữ carbon.
Hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường các-bon, đảm bảo đồng bộ với các quy định quốc tế. Ngoài ra, EVN được giao chủ trì một số dự án trọng điểm như điện gió ngoài khơi, thủy điện mở rộng, lưới truyền tải siêu cao áp (HVDC).
Sớm triển khai nghiên cứu, quy hoạch và có cơ chế chính sách hỗ trợ đối với các vùng nhiên liệu biomass, chuỗi cung ứng nhiên liệu amoniac/ biomass… đáp ứng lộ trình chuyển đổi nhiên liệu sạch cho các NMNĐ đốt than theo định hướng của Chính phủ.
Ngoài ra, EVN được tiếp cận trực tiếp các nguồn vốn vay ưu đãi quốc tế, đồng thời có cơ chế bảo lãnh nhằm giảm áp lực vốn đầu tư.
Thứ hai, đối với các địa phương, EVN đề xuất các địa phương hỗ trợ quy hoạch không gian, bố trí quỹ đất cho phát triển nguồn và lưới điện, không phụ thuộc vào chủ đầu tư như EVN; phối hợp trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.
Nghị quyết 70 là định hướng chiến lược quan trọng để Việt Nam vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Với vai trò và nhiệm vụ được giao, EVN cam kết chủ động triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp, huy động tối đa các nguồn lực trong nước và quốc tế để góp phần thực hiện thành công mục tiêu giảm phát thải 15–35% đến năm 2030, hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
PGS-TS. Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng, đại học Bách khoa Hà Nội trình bày tham luận "Thúc đẩy chuyển đổi năng lượng xanh tại Việt Nam hướng tới mục tiêu Net Zero 2050":
Trong hơn ba thập kỷ qua, ngành năng lượng Việt Nam đã đóng vai trò trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam vẫn thiên lệch: Than chiếm khoảng 49,7 %, Dầu mỏ và các sản phẩm dầu chiếm 24,7 %, Khí tự nhiên 6,4 %, Thủy điện 6,8 %, Năng lượng tái tạo (NLTT) khoảng 3,3 %, Sinh khối và chất thải 9,1 % [IEA 2023] (hình 1).
Đơn cử, cơ cấu huy động điện 6T/2024: than ~56,9%, thủy điện 18,9%, khí 8,6%, Năng lượng tái tạo (gió+mặt trời) 13,7%, nhập khẩu 1,7% (công bố của EVN). Mức độ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch cao khiến Việt Nam chịu rủi ro kép: vừa đối mặt với biến động giá năng lượng toàn cầu, vừa chịu áp lực giảm phát thải để thực hiện cam kết Net Zero 2050 tại COP26.
Theo Vietnam Energy Outlook 2024, để đạt được mục tiêu Net Zero 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm 8–10 tỷ USD/năm cho NLTT, hạ tầng và công nghệ lưu trữ - một con số thể hiện thách thức tài chính rất lớn.
 
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về “Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định rõ định hướng chiến lược: "Phát triển năng lượng phải gắn với chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo và kinh tế tuần hoàn, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, thực hiện cam kết Net Zero 2050".
Tinh thần Nghị quyết 70 thể hiện ở bốn nhóm mục tiêu trọng tâm: Xây dựng hệ thống năng lượng hiện đại, bền vững, thông minh, đồng bộ; Tăng tỷ trọng NLTT lên khoảng 30 % tổng cung năng lượng vào 2030, hướng tới 40–50 % vào 2045; Giảm phát thải khí nhà kính 10 % vào 2030 và 20 % vào 2045, tiến tới trung hòa carbon vào 2050; Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy ứng dụng KH-CN và đổi mới sáng tạo trong năng lượng.
Tuy nhiên, để hiện thực mục tiêu trên, Việt Nam đang đối mặt với ba thách thức lớn: Nhu cầu điện tăng nhanh trong khi nguồn cung ổn định còn hạn chế, gây áp lực lớn lên đầu tư mới; Phụ thuộc mạnh vào than và khí, dẫn tới rủi ro nhập khẩu, phát thải cao, thiếu tính bền vững; Năng lực lưu trữ và truyền tải yếu, khiến việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo bị gián đoạn, lãng phí công suất.
Ngoài ra, các vấn đề về khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực và tài chính xanh cũng là trở ngại đáng kể. Các công nghệ chủ chốt như pin lưu trữ, hydrogen xanh, AI trong quản lý năng lượng vẫn ở giai đoạn đầu; trong khi cơ chế tài chính xanh, trái phiếu xanh, quỹ đầu tư năng lượng mới đang hình thành. 80% thiết bị năng lượng tái tạo là nhập khẩu, năng lực nội địa trong sản xuất thiết bị và phát triển công nghệ năng lượng tiên tiến còn yếu.
Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra là Việt Nam cần chuyển đổi nhanh nhưng bền vững, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế, để biến tiềm năng thành hiện thực, hướng tới mục tiêu Net Zero 2050 đồng thời đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia vững chắc đến 2045.
Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi năng lượng việt nam Chuyển đổi năng lượng xanh là yêu cầu tất yếu trong tiến trình phát triển bền vững và thực hiện cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.
Để đạt được các mục tiêu chiến lược về an ninh năng lượng, giảm phát thải, và tăng trưởng xanh, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính liên ngành, gắn kết giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Viện, trường – Xã hội. Bốn nhóm giải pháp trọng tâm dưới đây hướng tới tháo gỡ các “điểm nghẽn” đã nêu, đồng thời tạo nền tảng khoa học – công nghệ cho chuyển dịch năng lượng bền vững.

Tăng vai trò của khu vực tư nhân và FDI: Khuyến khích đầu tư hỗn hợp (blended finance), trong đó các tập đoàn tư nhân đóng vai trò đồng đầu tư cùng nhà nước trong các dự án hạ tầng năng lượng. Đồng thời, định hướng FDI thế hệ mới vào công nghệ nguồn – không chỉ lắp đặt mà còn chuyển giao tri thức và R&D tại Việt Nam. Phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo: Khoa học – công nghệ (KH-CN) và đổi mới sáng tạo là nền tảng quyết định tốc độ, chất lượng và tính bền vững của quá trình chuyển đổi năng lượng.
Để tránh phụ thuộc công nghệ ngoại nhập, Việt Nam cần tập trung vào ba trụ cột: nghiên cứu – ứng dụng – thương mại hóa. Hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo và phòng thí nghiệm quốc gia: Thiết lập Trung tâm Đổi mới Công nghệ Năng lượng Việt Nam (VIEC-Innovation Hub) tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM, đặt dưới sự phối hợp của Bộ KH&CN – Bộ Công Thương – ĐHQG/ĐHBK Hà Nội. Trung tâm này đóng vai trò: Kết nối Viện nghiên cứu, trường Đại học – doanh nghiệp – địa phương; Cung cấp hạ tầng thí nghiệm cho R&D, thử nghiệm pilot; Ươm tạo startup và spin-off năng lượng xanh.
Thúc đẩy thương mại hóa, startup và nội địa hóa công nghệ: Khuyến khích hình thành vườn ươm khởi nghiệp năng lượng xanh trong các trường đại học, Viện nghiên cứu; hỗ trợ tài chính qua Quỹ đầu tư mạo hiểm xanh (Green VC Fund). Cho phép doanh nghiệp khấu trừ 150 % chi phí R&D khi tính thuế, áp dụng mô hình R&D Tax Offset của Australia.
Tập trung phát triển doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng nội địa hóa: pin thể rắn, pin nhiên liệu, thiết bị điện phân, lưu trữ CO2, inverter, tuabin, thiết bị điều khiển và vật liệu tiên tiến. Cần có chính sách đấu thầu nội địa hóa tối thiểu 40 % giá trị thiết bị cho các dự án điện gió – mặt trời từ 2027.
Để hiện thực các mục tiêu trên, cần sớm xây dựng và triển khai một số giải pháp trọng tâm: Ban hành Chiến lược quốc gia về Khoa học – Công nghệ, đổi mới sáng tạo Năng lượng xanh giai đoạn 2026–2040; Thành lập Quỹ Đổi mới sáng tạo Năng lượng Xanh Việt Nam, tạo cơ chế đồng tài trợ công – tư; Tăng đầu tư R&D về Năng lượng lên tối thiểu 1% GDP vào năm 2030; Đưa tiêu chí “tài chính – công nghệ – phát thải” vào xét duyệt dự án về năng lượng; Thiết lập cơ chế phối hợp: Nhà nước - Doanh nghiệp - Đại học - Nhà đầu tư quốc tế, tạo mạng lưới đồng hành trong chuyển đổi năng lượng xanh.
Hoàn thiện thể chế, chính sách và quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia: Việt Nam cần có Luật Năng lượng Xanh và Hiệu quả năng lượng (mới) tích hợp các cơ chế quản lý thị trường điện cạnh tranh, hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA), thị trường carbon, và lưu trữ năng lượng.
Luật cần quy định rõ các tiêu chí phân loại “dự án năng lượng xanh” nhằm đảm bảo thống nhất giữa các Bộ: Công Thương – Tài chính – NN&MT. Quy hoạch điện VIII (điều chỉnh 2024) nên được cập nhật định kỳ 3–5 năm, bổ sung cơ chế linh hoạt cho chuyển dịch nguồn và vùng.
Đồng thời, cần thiết lập Cơ quan Điều phối chuyển đổi năng lượng quốc gia (theo mô hình “Energy Transition Council” của Anh) để giám sát thống nhất giữa quy hoạch, đầu tư, và chính sách ưu đãi. Thúc đẩy tài chính xanh và cơ chế đầu tư bền vững: Thành lập Quỹ Đầu tư Năng lượng Xanh Quốc gia, vận hành theo cơ chế đồng tài trợ (co-funding) giữa ngân sách nhà nước, tổ chức tài chính quốc tế (ADB, JICA, WB, EIB) và khu vực tư nhân.
Quỹ này ưu tiên các dự án hydrogen, lưu trữ, điện gió ngoài khơi và chuyển đổi hạ tầng than – khí sang nhiên liệu sạch. Song song, cần mở rộng trái phiếu xanh (Green Bond), PPP xanh, và tín dụng xanh thương mại. Ngân hàng Nhà nước nên ban hành Bộ tiêu chí phân loại dự án xanh để làm cơ sở cấp vốn ưu đãi; hướng tới giảm lãi suất cho vay NLTT xuống mức 5-6 %/năm, tương đương Thái Lan và Malaysia.
Tăng vai trò của khu vực tư nhân và FDI: Khuyến khích đầu tư hỗn hợp (blended finance), trong đó các tập đoàn tư nhân đóng vai trò đồng đầu tư cùng nhà nước trong các dự án hạ tầng năng lượng.
Đồng thời, định hướng FDI thế hệ mới vào công nghệ nguồn – không chỉ lắp đặt mà còn chuyển giao tri thức và R&D tại Việt Nam. Phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo: Khoa học – công nghệ (KH-CN) và đổi mới sáng tạo là nền tảng quyết định tốc độ, chất lượng và tính bền vững của quá trình chuyển đổi năng lượng.

Thúc đẩy tín dụng cho năng lượng xanh
Ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng Ban Chính sách Tín dụng, Ngân hàng Agribank trình bày tham luận với chủ đề: “Thúc đẩy tín dụng cho năng lượng xanh – Thực tiễn tại Agribank và đề xuất giải pháp”:
Là ngân hàng thương mại 100% vốn nhà nước, với mạng lưới rộng khắp, đặc biệt ở khu vực nông thôn, Agribank đã tiên phong trong việc “xanh hóa” hoạt động tín dụng, phù hợp với sứ mệnh hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Agribank đã tích hợp yếu tố môi trường xã hội vào quy trình cấp tín dụng, đánh giá rủi ro môi trường xã hội như một tiêu chí bắt buộc.
 
Đến nay, Agribank đã triển khai nhiều chương trình hành động gắn với thông điệp “Vì tương lai xanh”, “phát triển bền vững”, bao gồm ưu tiên cho vay các dự án năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ và bảo vệ môi trường. Agribank cũng tích cực triển khai khung ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị), với việc đánh giá rủi ro môi trường là căn cứ quan trọng để cấp tín dụng.
Năm 2025, Agribank được vinh danh là “Ngân hàng tiêu biểu về tín dụng xanh” bởi Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Top 100 Doanh nghiệp ESG Việt Nam Xanh 2025, Top 10 doanh nghiệp ESG ngành ngân hàng 2025 - bảng xếp hạng do Viet Research phối hợp với Báo Tài chính - Đầu tư công bố, nhờ dấu ấn tiên phong trong việc gắn kết ngân hàng với nông dân, doanh nghiệp và cộng đồng.
Những thành tựu của Agribank không chỉ góp phần vào mục tiêu quốc gia mà còn mang lại lợi ích kinh tế, như giảm nợ xấu nhờ dự án xanh có tính bền vững cao, và nâng cao hình ảnh thương hiệu trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Tính đến 30/6/2025, dư nợ tín dụng xanh của Agribank đạt gần 28.800 tỷ đồng. Cụ thể, phát triển lâm nghiệp bền vững: dư nợ đạt khoảng 6.953 tỷ đồng (chiếm khoảng 24% dư nợ tín dụng xanh). Lĩnh vực nông nghiệp xanh: Dư nợ đạt khoảng 6.543 tỷ đồng (chiếm khoảng 22,7% dư nợ tín dụng xanh).
Lĩnh vực năng lượng sạch, năng lượng tái tạo: dư nợ đạt khoảng 15.107 tỷ đồng (chiếm khoảng 52,5% dư nợ tín dụng xanh - chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ tín dụng xanh tại Agribank). Các lĩnh vực còn lại: Dư nợ đạt khoảng 180 tỷ đồng (chiếm khoảng 0,8% dư nợ tín dụng xanh).
Các dự án này hiện đang triển khai rất hiệu quả và mang lại lợi ích về môi trường và xã hội cũng như thúc đẩy kinh tế tại địa phương.
Agribank đã triển khai đa dạng các chương trình tín dụng xanh, với tổng quy mô hàng chục nghìn tỷ đồng. Trong đó, một số chương trình tập trung vào năng lượng xanh, năng lượng tái tạo: Chương trình tín dụng xanh ưu đãi với quy mô 30.000 tỷ đồng, dành cho dự án đầu tư thuộc các ngành trọng điểm và lĩnh vực xanh, với lãi suất cố định chỉ từ 6,0%/năm trong 24 tháng, áp dụng đến hết 31/12/2025. Chương trình này ưu tiên các dự án năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch và bảo vệ môi trường, giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn và thúc đẩy chuyển đổi xanh.
Mở rộng đầu tư cho các dự án bảo vệ môi trường do tổ chức quốc tế tài trợ cho dự án năng lượng gió, mặt trời và khí sinh học do tổ chức quốc tế tài trợ, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung Tây Nguyên để chống hạn mặn.

Căn cứ chỉ đạo tại Nghị quyết 70-NQ/TW, Agribank xác định tín dụng xanh nói chung và tín dụng cho năng lượng xanh nói riêng là một trong những nội dung trọng tâm trong lộ trình phát triển dài hạn, gắn liền với chuyển đổi số, xây dựng ngân hàng hiện đại và hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, Agribank đề xuất tiếp tục thực hiện các giải pháp:
Thứ nhất, Agribank tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nội bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Trong quá trình cấp tín dụng, Agribank gắn thẩm định dự án với đánh giá tác động môi trường, loại trừ dự án ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, tập trung vào các dự án năng lượng tái tạo như điện gió và mặt trời.
Thứ hai, Agribank sẽ tiếp tục nghiên cứu và phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tiêu chuẩn xanh theo quyết định 21 và quốc tế, trong đó tập trung vào năng lượng tái tạo, công nghệ cao và các nguồn năng lượng mới.
Thứ ba, Agribank sẽ tích cực tăng cường hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế để triển khai dự án lớn với tổ chức tài chính toàn cầu để tăng năng lực thích ứng biến đổi khí hậu thông qua năng lượng xanh.
Thứ tư, Agribank sẽ tiếp tục công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh.
Đối với Agribank, tín dụng cho năng lượng xanh không chỉ là cầu nối gắn kết ngân hàng với người nông dân, doanh nghiệp, cộng đồng và các tổ chức phát triển trong nước và quốc tế, mà đó còn là sự chung tay hiện thực hóa các cam kết bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển năng lượng bền vững.
Những định hướng của Nghị quyết 70 về huy động nguồn vốn xã hội và phát triển tài chính xanh là cơ sở để hệ thống ngân hàng, trong đó có Agribank, phát huy vai trò trung gian tài chính thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng xanh.
Agribank đề xuất hoàn thiện khung pháp lý tổng thể: Ban hành quy định thống nhất về tín dụng xanh và trái phiếu xanh (trong đó tập trung vào năng lượng xanh); quy định cụ thể tiêu chí quản lý rủi ro môi trường và xã hội.

Tạo cơ chế khuyến khích: Ưu đãi hệ số rủi ro, giảm chi phí vốn cho dự án năng lượng xanh; xếp hạng TCTD tín dụng năng lượng xanh; tiếp cận vốn quốc tế, quỹ khí hậu và tái cấp vốn từ NHNN cho công nghệ năng lượng tái tạo.
Phát triển nguồn nhân lực: NHNN phối hợp với các tổ chức quốc tế thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo về tài chính bền vững và ESG tập trung vào năng lượng xanh.
Chuẩn hóa dữ liệu, minh bạch thông tin: Xây dựng cơ sở dữ liệu phát thải khí nhà kính và tín dụng năng lượng xanh, ứng dụng công nghệ số cho giám sát dự án năng lượng tái tạo.
Tăng cường nhận thức và phối hợp liên ngành: Tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành, như Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước, để đảm bảo các chính sách tín dụng năng lượng xanh được triển khai đồng bộ, tránh chồng chéo hoặc mâu thuẫn.
"Thúc đẩy tín dụng cho năng lượng xanh là sứ mệnh chung của toàn xã hội và Agribank cam kết đồng hành cùng Chính phủ trong thực hiện Nghị quyết 70, chủ động tiếp cận và cấp tín dụng cho các dự án năng lượng xanh, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển xanh và bền vững", ông Vương Văn Quý khẳng định.
THẢO LUẬN MỞ
TS. Nguyễn Anh Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài điều phối phiên thảo luận mở với các diễn giả: Ông Phan Đức Hiếu, Uỷ viên thường trực, Uỷ ban Kinh tế Tài chính Quốc hội; ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương; ông Nguyễn Thái Sơn, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Năng lượng Việt Nam; PGS.TS. Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội; TS. Nguyễn Thanh Hải, chuyên gia Kinh tế Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ); đại diện doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế; đại diện ngân hàng thương mại.
 
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Tại phiên một hội thảo chúng ta đã được nghe 4 tham luận từ đại diện cơ quan quản lý Nhà nước (Cục Điện lực), đại diện doanh nghiệp trong ngành năng lượng là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đại diện cơ quan nghiên cứu độc lập đến từ Viện Công nghệ Năng lượng, đại diện tổ chức cấp tín dụng là Ngân hàng Agribank. Trong tài liệu kỷ yếu chúng ta còn có một số tham luận từ đại diện các đơn vị tham gia vào lĩnh vực này. Mở đầu phiên thảo luận, xin mời ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Tài chính - Kinh tế của Quốc hội, sau 4 tham luận, ở góc độ cơ quan lập pháp, xin ông cho biết quan điểm của Quốc hội về hệ thống chính sách phát triển năng lượng xanh hiện nay ra sao? Ông bình luận gì về những ý kiến đã nêu ra thách thức rào cản về một số giải pháp đã được đưa ra?
Ông Phan Đức Hiếu: Tôi nghĩ vai trò của chuyển đổi xanh trong lĩnh vực năng lượng có tác động 3 lần. Thứ nhất, bản thân sản xuất năng lượng cũng tạo phát thải do đó nhu cầu giảm phát thải trong phát năng lượng là điều thấy đầu tiên.
Thứ hai, năng lượng là đầu vào của hầu hết hoạt động kinh tế xã hội, nên muốn các ngành khác chuyển đổi xanh thì nguồn đầu vào trước hết cũng phải xanh.
Thứ ba, vai trò của ngành năng lượng cần tính đến yếu tố chất lượng ổn định, giá rẻ và cần cân bằng hợp lý để sử dụng năng lượng tiết kiệm.
 
Tôi băn khoăn 2 điều. Một là Nghị quyết 68 đặt vấn đề lớn hơn cơ chế đặc thù phát triển kinh tế tư nhân. Như thế cần tạo cơ chế thực sự thuận lợi và xử lý gỡ vướng những dự án khó khăn. Do đó, có 2 cách tiếp cận là tạo cơ chế chung và thứ hai là giải quyết cụ thể từng dự án. Cần xác định rõ phạm vi Nghị quyết này (dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thể chế hóa Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị - PV), trong bối cảnh thời gian ngắn có cần giải quyết một trong hai hay cả hai? Cá nhân tôi mong muốn xử lý được cả hai.
Thứ hai, yêu cầu để phát triển năng lượng xanh cần từ thể chế chính sách, vấn đề từ tài chính, hạ tầng (truyền tải hạ tầng, lưu trữ, đầu ra, khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm..), rất mong kiến nghị một số giải pháp thực sự quan trọng và cần phải có ngay trong tháng 11.
Theo tôi, nên tư duy mạch lạc một số điểm gồm phát điện và cơ chế mua bán điện, thứ ba là hạ tầng và thứ tư là tài chính, thứ năm liên quan thúc đẩy sử dụng năng lượng. Và cũng cần chỉ ra đâu là giải pháp thực sự cụ thể.
Phía EVN có nói về cơ chế đầu tư, Nghị quyết Quốc hội lần này có sự thay đổi là không đưa nguyên tắc chung chung mà đưa ra giải pháp cụ thể và thực hiện được ngay.
Đất đai chúng ta có Nghị quyết tháo gỡ khó khăn về đất đai. Dự án điện hạ tầng và phát triển điện đều liên quan đất đai. Vậy đất đai khó nhất là gì? Đó là giải pháp mặt bằng, thu hồi đất, khoanh vùng nhà đầu tư chủ động khảo sát nghiên cứu điện gió, điện ngoài khơi…
Vậy tiếp theo, sẽ làm trong Nghị quyết này hay Nghị quyết về đất đai? Chúng tôi cũng đang sửa đổi Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật địa chất khoáng sản sản, Luật chuyển giao công nghệ. Như vậy, tôi băn khoăn cần kiến nghị cả cách làm.
Tất cả nên gói vào Nghị quyết về năng lượng chung, hay chia ra? Cá nhân tôi muốn tập trung một Nghị quyết là tốt nhất, do sẽ có cái nhìn mạch lạc và hệ thống. Việc chia nhiều Nghị quyết có thể dẫn đến không kiểm soát được.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Câu hỏi tiếp theo xin dành cho ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, tại phần tham luận, ông có đề cập dự thảo Nghị quyết sẽ quy định một số cơ chế đặc thù, ông có thể chia sẻ cụ thể hơn cơ chế đặc thù đó là cơ chế gì và có gì khác so với trước đây?
Ông Trần Hoài Trang: Ngày 30/10 là hạn cuối để Bộ Công Thương trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết. Bộ Công Thương đã nhận diện một số điểm nghẽn pháp lý liên quan đến các luật tại thời điển này như: Luật Điện lực, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên, Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch. Các luật này đang có những điểm chưa đồng bộ trong quy định đối tượng chủ đầu tư phát triển nguồn điện, lưới điện, tạo thành điểm nghẽn, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh.
 
Chúng tôi đưa vào dự thảo các đề xuất để tháo gỡ các nút thắt như sau:
+ Luật Quy hoạch: Luật này không cho phép điều chỉnh cục bộ mà chỉ cho phép điều chỉnh theo kỳ 5 năm. Dự án điện liên quan đến nhiều vấn đề, ví dụ các chủ đầu tư chậm tiến độ mà cần điều chỉnh kịp thời để phù hợp với kết quả nghiên cứu cập nhật. Tuy nhiên, họ phải đợi kỳ điều chỉnh quy hoạch, nên dẫn tới chậm điều chỉnh. Do đó, chúng tôi đề xuất điều chỉnh linh hoạt đối với các dự án cần điều chỉnh về mặt kỹ thuât, và các dự án chậm tiến độ mà có thể thay thế bằng các dự án khác.
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội đưa ra những quy định để tháo gỡ vướng mắc cho các dự án liên quan đến Luật Quy hoạch, các nghị quyết Trung ương, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Chúng tôi đề xuất các điều chỉnh ngắn gọn có thể thực hiện được ngày.
+ Trong các dự án lưới điện, nguồn điện, EVN, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân gặp khó khăn thực hiện các quy định của Luật Đầu tư. Chúng tôi đề xuất các dự án nào thuộc danh mục Quy hoạch Điện VIII và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh thì không cần thực hiện chủ trương đầu tư.
Trong thực tiễn, để đạt được chủ trương đầu tư, các dự án cần nhiều điều kiện đáp ứng. Chúng tôi đề xuất danh mục các dự án có thể được áp dụng luôn được đầu tư, từ đó cắt giảm thời gian 2-3 năm chờ chấp thuận chủ trương đầu tư. Các dự án điện trong giai đoạn đến năm 2030 sẽ được Quốc hội cho phép thực hiện trước các dự án được quy hoạch.
+ Quy định lựa chọn nhà đầu tư và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Nghị quyết của Quốc hội thực hiện Nghị quyết 70 cho phép các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có thực lực, điều kiện kinh tế và nhu cầu đầu tư các dự án điện được hưởng các cơ chế vượt các quy định khác. Ví dụ, phân cấp cho UBND cấp tỉnh chấp thuận các dự án, và các nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính và kinh nghiệp được thực hiện các dự án quan trọng, cấp bách.
Ngoài ra, sau khi lựa chọn được nhà đầu tư bằng hình thức đấu thầu, chúng tôi đề xuất giá mua bán điện thoả thuận với EVN trở thành giá trúng thầu mà không vượt khung giá của Bộ Công Thương, bỏ quy định đàm phán lại với EVN sau khi trúng thầu. Thực tiễn, trong thời gian qua, EVN gặp khó khăn trong việc thẩm định lại dự án đầu tư để quyết định giá mua bán điện.
Dự thảo Nghị quyết quy định giá điện trúng thầu trở thành giá điện ký hợp đồng mà không vượt khung giá do Bộ Công Thương quy định, từ đó cắt giảm thời gian thực hiện dự án. Ngoài ra, chúng tôi bỏ quy định về khung giá trong hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) để các bên tự quy định với nhau.
Chúng tôi mở rộng thêm đối tượng. Trước đây, các nhà đầu tư tự thoả thuận mua bán điện với nhau, còn EVN mua lại điện mà các bên không cam kết với nhau. Giờ đây, các nhà mua bán lẻ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất được tham gia vào việc mua bán này. Nghị quyết cũng có quy định xử lý nghiêm khắc các chủ đầu tư chây ì, không thực hiện các dự án điện.
Trong thực tiễn, việc xác định các nguyên nhân do chủ đầu tư hay Nhà nước là khó khăn. Nghị quyết đề xuất các quy định nghiêm khắc, xử lý tình trạng này cụ thể với các dự án nguồn điện, theo đặc thù triển khai xây dựng các dự án. Ví dụ, nếu quá 18 tháng mà không đàm phán và ký được hợp đồng giá điện thì sẽ bị thu hồi. Chúng tôi bổ sung trách nhiệm hậu kiểm của Bộ Công Thương, UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng nhà nước đối với từng lĩnh vực.

Tôi có thêm một ý kiến cá nhân. Để phát triển xanh sạch, cần nhiều yếu tố. Chúng tôi cần có sự cân đối hài hoà, để hệ thống điện vận hành an toàn. Ví dụ, vừa qua việc phát triển điện mặt trời chững lại, bởi nếu điện mặt trời phát triển quá mạnh, dẫn tới sự trồi sụt nhanh sản lượng điện nối lưới, nên cần thêm điện chạy nền để đảm bảo hệ thống vận hành an toàn.
Để có các dự án điện xanh sạch, cần thêm quy định tiêu chí xanh sạch từ các bộ ngành khác, tiêu chí tiếp cận nguồn vốn… Để đáp ứng tiêu chí xanh, chi phí dự án tăng lên, hiệu quả kinh tế của dự án giảm xuống. Trong khi đó, ngân hàng chỉ lưu ý đến khả năng trả nợ. Đây là khó khăn đặc thù của ngành điện.
Ngoài ra còn có vấn đề về hạ tầng. Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thực hiện Nghị quyết 70 nêu cụ thể các dự án sẽ triển khai các dự án trong giai đoạn 2026-2030, tập trung vào thể chế cần tháo gỡ cho các dự án. Bộ Chính trị đã nhận diện các vướng mắc, yêu cầu Bộ Công Thương tập trung nghiên cứu các dự án gặp khó trong giai đoạn 2026-2030. Các dự án hiện nay đang gặp vướng mắc có cơ sở pháp lý.
Về lâu dài, chúng ta cần có sửa đổi căn cơ, tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Ví dụ, Luật Điện lực sẽ được bắt đầu sửa đổi vào tháng 6/2026. Các đề xuất cơ chế trong Nghị quyết của Quốc hội chỉ có thời hạn cho các dự án trong giai đoạn này.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Nêu ý kiến tại Hội thảo, các đại biểu đã nhận diện thách thức, rào cản bảo đảm an ninh năng lượng và có một điểm chung các tham luận đều chỉ ra điểm nghẽn trong việc truyền tải điện, năng lực lưới điện. Tôi đề nghị ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có thể trả lời cụ thể hơn đâu là giải pháp chính yếu EVN thực hiện trong thời gian tới để nâng cao năng lực truyền tải?
Ông Nguyễn Tài Anh: Truyền tải điện là thành phần quan trọng trong hệ thống điện. Việc điện phát ra mà không truyền tải được thì không đến tay người tiêu dùng được. Trong giai đoạn 2020-2030. Tổng khối lượng lưới điện truyền tải tăng khoảng 3 lần so với giai đoạn từ 2011-2020. Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh dự kiến tổng vốn đầu tư yêu cầu hệ thống điện từ 13-15 tỷ USD, trong đó khoảng 75% và nguồn điện, 25% vào hệ thống lưới điện (gồm truyền tải và phân phối).
 
Như vậy, chúng ta mỗi năm cần 3-5 tỷ USD và đây là khối lượng lớn. Thách thức lớn nhất hiện nay về công tác quy hoạch đồng bộ giữa nguồn và lưới. Nguồn vào mà không có lưới, hoặc có nguồn không có lưới thì không có kinh tế. vậy làm sao quy hoạch đồng bộ với nguồn là rất cần thiết. Với chuyển đổi năng lượng xanh, các dự án điện gió, điện mặt trời thì thời gian xây dựng nhanh. Điện mặt trời từ 6 tháng đến 1 năm là cùng. Điện gió 1 năm hoặc năm rưỡi.
Trong khi đó, hệ thống điện 500KV cần 3-5 năm xây dựng. Ngoài thời gian chuẩn bị đầu tư, thủ tục, tức tổng cộng cần 7 năm với dự án 500KV, 5 năm với dự án 220KV, và 3 năm với dự án 110KV, như vậy hoàn toàn không khớp chuyển đổi đảm bảo năng lượng xanh. Như vậy, cần sự chính xác và cam kết giữa người phát triển dự án và lưới điện.
Chúng tôi đã kiến nghị Bộ Công Thương, thì trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh có nhóm giải pháp căn cơ là EVN (trong đó có Tổng công ty truyền tải điện) chỉ đảm nhận dự án trục chính, còn hệ thống đấu nối từ nhà máy và trục chính thì do nhà đầu tư làm.
Như vậy, nhà đầu tư chịu trách nhiệm đồng bộ lưới và nguồn điện. Đó là giải pháp tất cả các nước đều đi theo. Trong Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh, có danh mục nhà nước làm (tức EVN), danh mục xã hội hóa – nghĩa là nhà phát triển/nhà đầu tư dự án. Điều này rất hợp lý. Trước đây chúng ta gặp vướng mắc về giá, hiện có quy chế là đấu thầu, cả nguồn và lưới đấu thầu cho giá thấp nhất.
Bộ Công Thương đã xây dựng cơ chế chính sách để triển khai giải pháp này. Đây là giải pháp căn cơ, các bộ phận tham gia, trừ trục chính, an ninh quốc gia. Ngoài ra, về nhóm giải pháp Quy hoạch và cam kết nhà đầu tư, khi xây dựng hệ thống lưới như vậy, cần nâng cao cam kết giữa phần lưới và nguồn.
Ví dụ làm dự án mua điện từ Lào, EVN cam kết sự sẵn sàng của lưới tại thời điểm đó, song Lào cũng cần cam kết nếu thời diểm dó không đưa vào thì bị phạt. Bởi 2 bên nếu lệch tiến độ đều ảnh hưởng dự án tài chính dự án. Hiện điều này chưa có trong Luật điện lực, song thời gian tới, kiến nghị cần sự công bằng về trách nhiệm và nghĩa vụ các bên.
Đối với thể chế, khó khăn nhất là lưới điện theo kịp nguồn điện. Dự án 500kv mất 7 năm, song phải làm quyết liệt mới thực hiện được. Chúng ta có nhiều thủ tục từ quy hoạch đến chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Chúng ta biết các dự án chỉ cần một nhà dân không đồng ý di dời là dự án đó khó triển khai tiếp.
Chúng tôi có những dự án kéo dài 9 năm do gặp trường hợp như vậy. Với cơ chế bớt thủ tục đó, chúng ta mới hoàn thành tiến độ chung. Kể cả EVN hay nhà đầu tư khác làm vẫn cần cơ chế đó. Thời gian tới, kiến nghị Bộ Công Thương trong sửa đổi Luật Điện lực để thể chế hóa toàn bộ nghĩa vụ và trách nhiệm các bên trong kết nối hệ thống diện.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Ban tổ chức rất muốn nghe ý kiến ông Nguyễn Thái Sơn, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Năng lượng Việt Nam về các giải pháp căn cơ để thu hút tối đa nguồn lực đầu tư tư nhân để phát triển năng lượng xanh tại Việt Nam?
Ông Nguyễn Thái Sơn: Liên quan tới nguồn lực tư nhân - trong tổng sơ đồ Điện VIII cần 118 tỷ USD cho phát triển nguồn điện. Rà soát lại, đối với đầu tư lưới điện truyền tải theo kế hoạch 5 năm hiện nay vốn nhà nước mới đạt 60% tổng nhu cầu vốn, còn 40% lưới điện không biết ai đầu tư và cần có nguồn lực đầu tư tư nhân.
 
Theo Quy hoạch Điện VIII có đấu thầu, chủ yếu nguồn đầu tư xã hội tư nhân và đầu tư nước ngoài. Một số công trình có tính chất trọng điểm. Nguồn lực tư nhân phải huy động tối đa. Một số giải pháp để huy động vốn từ nhân là:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế khung pháp lý để khuyến khích các nhà đầu tư, đảm bảo yên tâm tham gia huy động nguồn lực. Trong đó, vấn đề thủ tục rườm rà cần được lưu ý. Thực tế thủ tục ngành điện quá phức tạp, nhà đầu tư nước ngoài vào thấy như “mê hồn trận” nên cần rút ngắn các thủ tục để triển khai.
Thứ hai là cần có cơ chế khuyến khích liền mạch. Hiện nay nhiều dự án NLTT đang vướng mắc khi một thời gian chúng ta dừng giá FIT. Vì vậy, chính sách mới phải đảm bảo áp dụng liền mạch, tránh đứt quãng.
Tiếp đó, cần tính toán tới vướng mắc về quy hoạch, sử dụng đất tránh mâu thuẫn mà cần có tính đồng bộ cần tháo gỡ. Có thể thấy Nghị quyết 70, sau đó sẽ là Nghị quyết của Quốc hội với các cơ chế đột phá về năng lượng xanh là rất cần thiết, hứa hẹn sẽ thúc đẩy đầu tư cả nhà nước và tư nhân với cơ hội rất lớn.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Tham gia Hội thảo hôm nay có ông Nguyễn Thanh Hải, chuyên gia Kinh tế Tổ chức hợp tác quốc tế Đức (GIZ), theo rất sát quá trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam. Trong tham luận của mình, ông có nêu nhu cầu vốn để chuyển đổi năng lượng lên tới 46 tỷ USD/ năm. Về con số này, ý kiến chuyên gia cũng tương đối khác nhau về nhu cầu vốn, vậy nhu cầu về lượng vốn này là như thế nào, ông có thể chia sẻ cụ thể nghiên cứu của mình?
TS. Nguyễn Thanh Hải. Theo tính toán của tôi, về phần vốn xã hội hoá để thực hiện các dự án điện trong Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh, riêng phần xã hội hóa đối với nguồn điện là 90,8 tỷ USD, chiếm 76% tổng nhu cầu đầu tư. Như vậy, trách nhiệm thực thi Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh nằm trong tay tư nhân.
Chúng ta phải trả lời câu hỏi đầu tiên là tiền ở đâu? Hiện Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đưa ra tổng vốn đầu tư rồi phân cho Nhà nước và tư nhân. Bản thân nguồn lực tài chính của 3 tập đoàn lớn của Nhà nước (PVN, EVN, Vinacomin) hiện rất mỏng, nên họ phải huy động vốn từ bên ngoài. Nếu tính thêm phần này, tạm gọi là phần vốn ngoài Nhà nước, tổng vốn huy động sẽ rất lớn.
Do đó, cần có chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân cho các dư án điện. Tôi có đề nghị thêm cần có thêm cơ chế áp dụng Cơ chế giá ưu đãi - FiP (Feed-in Premium). Chúng ta cần chuyển đổi nhanh cơ chế Cơ chế hỗ trợ giá (FIT) sang FIP.
Ngoài Đức, cơ chế này đã được áp dụng tại Nhật Bản, Tây Ban Nha và Ý. Như ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương vừa trình bày, các định chế tài chính khi cung cấp vốn hay phát hành trái phiếu xanh, họ tính toán cụ thể.
Hiện có 35 tổ chức, bao gồm EU, đưa ra danh mục phân loại xanh, trong đó có danh mục phân loại năng lượng xanh. Khi đầu tư, các dự án điện cần đáp ứng các mục tiêu và tiêu chí. Về kinh nghiệm quốc tế, các nước đưa ra phân loại xanh cho 2 phần: năng lượng tái tạo và đường dây, dự trữ.
 
Trong 5 năm trở lại đây, các nước có danh mục dự án chuyển đổi xanh, nhằm đạt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Trong danh mục phân loại xanh của Việt Nam vừa được ban hành có 10 mục, nhưng không có danh mục về chuyển đổi năng lượng xanh.
Trong một hội thảo gần đây, tôi góp ý bổ sung thêm 5 danh mục chuyển đổi xanh, gồm sắt thép, xi măng. Ngoài ra, các nước còn bổ sung mục tiêu "no harm", tức không ảnh hưởng đến các điều kiện môi trường khác. Khi thực hiện chuyển đổi xanh, các cơ quan chức năng cần thêm danh mục để các ngân hàng thực hiện tiêu chí này.
Về kinh nghiệm phát triển năng lượng của Đức, nước này chú trọng nhiều vào việc xác định mục tiêu rất rõ ràng và hợp lý. Ví dụ, Đức đặt mục tiêu tỷ lệ điện tái tạo chỉ là 65% đến 2050, tiếp theo là xác định phát thải. Đức cũng xác định chiến lược đầu tư cụ thể. Đến năm 2020, Đức đã sửa đổi Luật Năng lượng, trong đó đưa thêm FIP vào. Luật định kỳ được cập nhật.
Gần đây nhất, trong giai đoạn 2021-2022, bộ tứ pháp luật của họ bao gồm Luật Khí hậu của châu Âu, Luật khí hậu của Đức, Luật Năng lượng tái tạo và Luật hiệu quả năng lượng. Luật của họ không phải chỉ là cái định hướng chung mà quy định rất chi tiết. Đơn cử, luật của Đức được định hướng chi tiết về FIT và FIP, từ đó mới đảm bảo tính khả thi. Do đó, tôi khuyến nghị là các luật, nghị quyết của Việt Nam cần quy định cụ thể các tiêu chí.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Tiếp mạch đang trao đổi, nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng, cùng với nguồn huy động từ thị trường chứng khoán, hội thảo hôm nay có cả đại diện NHNN và UBCKNN. Xin mời bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN có chia sẻ trước về các chính sách tín dụng đối với chuyển đổi năng lượng có điểm gì mới, nhất là từ khi có danh mục xanh?
Bà Phạm Thị Thanh Tùng: Liên quan đến tín dụng cho chuyển đổi xanh, ngành ngân hàng đã có 10 năm thúc đẩy tín dụng xanh. Bắt đầu 2015, NHNN có văn bản chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung ưu tiên tín dụng các ngành và lĩnh vực xanh, năng lượng tái tạo, các ngành giảm phát thải. Năm 2017, NHNN đã cùng tổ chức GIZ ban hành danh mục 12 ngành xanh.
 
Thời điểm đó, trong khối ASEAN, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ban hành danh mục xanh và có đề cập ngành năng lượng tái tạo. Năm 2017 đề cập 5 nhóm dự án NLTT. 2015-2017, NHNN có danh mục xanh. Đến 2025, trên cơ sở danh mục xanh theo Quyết định 21 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN chỉ đạo TCTD ưu tiên và tập trung vốn cho vay và khuyến khích TCTD có cơ chế ưu đãi cho vay sao cho phù hợp năng lực và khả năng triển khai các ngân hàng.
Sau 10 năm triển khai về thúc đẩy tín dụng xanh, kết quả cho vay tín dụng xanh khá tích cực. Có nhiều TCTD cho vay dự án xanh theo 12 danh mục. Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh bình quân từ 2017 đến nay đạt 22%. Riêng với năng lượng tái tạo (NLTT) có sự tăng trưởng vượt bậc.
Năm 2017 dư nợ cho vay ngành NLTT chỉ có 9.500 tỷ đồng, thì cuối tháng 6/2025 dư nợ tăng lên gần 290.000 tỷ đồng. Nếu tính tốc đột tăng trưởng tín dụng bình quân của ngành NLTT, thì đạt khoảng 150% và cao hơn nhiều so với tăng trưởng dư nợ bình quân của tín dụng xanh. Cho thấy các tổ chức tín dụng rất quan tâm tập trung nguồn vốn cho vay và chuyển đổi năng lượng xanh. Trong tổng dư nợ tín dụng xanh, tỷ trọng cho vay NLTT chiếm lớn nhất, là 39%.
Theo Nghị quyết 198 năm của Quốc hội, dự án xanh được hỗ trợ lãi suất 2%/ năm. Hiện dự thảo Nghị định quy định cơ chế này đang được xây dựng và hoàn thiện trong năm 2025, trình Chính phủ. Nguồn từ thị trường vốn có thị trường trái phiếu xanh và sàn giao dịch tín chỉ carbon. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu khuôn khổ pháp lý cho cả 2 loại hình này.

Danh mục phân loại xanh đã được ban hành song chưa triển khai được do chưa có hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường về triển khai Quyết định 21 của Thủ tướng Chính phủ.
Cần có các tiêu chí rất rõ ràng mới triển khai cơ chế hỗ trợ cho chủ đầu tư. Giai đoạn 2019-2023, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho NLTT rất nhanh. Tiềm ẩn rủi ro các tổ chức cho vay là nhiều dự án nằm ngoài quy hoạch. Nhiều dự án đưa vào vận hành song không chạy hết công suất.
 
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Thưa ông Trần Hoài Nam, Phó Giám đốc Khối khách hàng Doanh nghiệp VietinBank, từ thực tiễn hoạt động của mình có vướng mắc gì trong việc cấp tín dụng cho các dự án chuyển đổi năng lượng không?
Ông Trần Hoài Nam: Với vai trò vừa là kênh cho vay vừa là kênh dẫn vốn, tại VietinBank, tới hết quý III/ 2025, tổng dư nợ cho vay ngành năng lượng nói chung là khoảng trên 100 nghìn tỷ đồng và tổng dư nợ tín dụng xanh là hơn 2 tỷ USD (~53,000 tỷ đồng).
Từ nhiều năm qua, VietinBank đã hợp tác với các tổ chức quốc tế triển khai tín dụng xanh. Sau khi Việt Nam cam kết hướng tới mục tiêu NetZero vào năm 2050 tại COP26, hoạt động tín dụng xanh tại VietinBank ngày càng được đẩy mạnh.
2 năm vừa qua, VietinBank đã tổ chức các hội nghị, sự kiện chuyên đề dành riêng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước và doanh nghiệp FDI. Tại các chương trình này, “chuyển đổi xanh” là chủ đề rất được quan tâm do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những tiêu chuẩn ESG khắt khe của các thị trường lớn như EU. Lắng nghe nguyện vọng của các doanh nghiệp trong việc có nguồn vốn hợp lý, ưu đãi để chuyển đổi xanh, đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của thị trường, VietinBank đã và đang triển khai một cách có hệ thống từ việc xây dựng Khung Tài chính Bền vững tới triển khai sản phẩm Tiền gửi xanh, nghiên cứu phương án phát hành trái phiếu xanh để huy động nguồn lực.
Sự ra mắt của sản phẩm Tiền gửi xanh VietinBank đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ cộng đồng doanh nghiệp. Tại thời điểm tháng 10/2025, VietinBank đã huy động gần 10.000 tỷ đồng tiền gửi xanh và sẽ sử dụng nguồn vốn này cho các dự án xanh, dự án xã hội trong Khung Tiền gửi xanh của Ngân hàng.
Cùng với chủ trương của NHNN, VietinBank đã ban hành nhiều gói tín dụng ưu đãi như Gói tín dụng ưu đãi tài trợ 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Chương trình cho vay tài trợ dự án nông nghiệp công nghệ cao, Gói ưu đãi trung dài hạn với quy mô 130.000 tỷ đồng trong đó có doanh nghiệp xanh, Gói Green Up với quy mô 5.000 tỷ đồng cho các phương án, dự án mang lại lợi ích về môi trường và xã hội, Gói 4.000 tỷ tài trợ đơn vị nhận nhượng quyền trạm sạc xe điện, v.v nhằm cung cấp vốn với lãi suất ưu đãi cho khách hàng.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Sau khi có Danh mục phân loại xanh quốc gia, ông nhận định như thế nào về xu hướng tín dụng xanh trong tương lai?
Khi chính sách và thị trường đang ngày càng được đồng bộ và chuẩn hóa với sự ban hành của Danh mục phân loại xanh quốc gia, xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon, v.v các doanh nghiệp sẽ có nhu cầu đầu tư nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường. Trong bối cảnh đó, VietinBank cũng đã tham gia Dự án Hỗ trợ Kỹ thuật “Thúc đẩy tài chính toàn diện và tài trợ khí hậu” của ADB nhằm phân tích và nâng cao năng lực ngân hàng xanh của mình theo các tiêu chuẩn quốc tế, thể hiện cam kết luôn sẵn sàng đồng hành cùng khách hàng doanh nghiệp trong hành trình chuyển đổi xanh.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Một kênh khác tôi muốn đề cập là thị trường vốn, xin mời chia sẻ của bà Phạm Thị Thùy Linh, Trưởng ban Phát triển thị trường, UBCKNN, bà đánh giá việc huy động vốn qua kênh chứng khoán và trái phiếu xanh tới đây sẽ như thế nào, có khuyến nghị cụ thể gì để thúc đẩy trái phiếu xanh và quỹ đầu tư xanh tại Việt Nam?
Bà Phạm Thị Thuỳ Linh: Các đại biểu đã đề cập đến các cách thức để huy động vốn nhằm đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050. UBCKNN cũng đặt ra mục tiêu huy động trái phiếu, cổ phiếu trong lĩnh vực xanh. Năm 2021, chúng ta đã có sổ tay về phát hành vốn bằng trái phiếu xanh.
Gần đây, tại TP.HCM, chúng ta đã phát hành sổ tay để các doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh, cả trước và sau phát hành, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật của Việt Nam. Đối với trái phiếu xanh, về mặt cơ sở pháp lý, chúng ta có các quy định đầy đủ, gồm Nghị định 153/2020, Nghị định 65/2022 và Nghị định 08/2023.
 
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) đã đưa vào các chính sách ưu đãi tiếp theo về trái phiếu xanh, tín chỉ carbon, bao gồm cả nhà đầu tư được ưu đãi về thuế, miễn thuế đối với trái phiếu xanh. Sắp tới, Bộ Tài chính sẽ có thêm các chính sách trình Quốc hội về lĩnh vực thuế. Chúng ta cũng có ưu đãi đối với chi phí phát hành trái phiếu xanh.
Đơn cử, việc phát hành trái phiếu xanh được miễn toàn bộ phí phát hành tại Sở Giao dịch chứng khoán, quy định tại Thông tư 83 của Bộ Tài chính. Các chính sách này hướng đến việc doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn xanh. Về huy động vốn thông qua cổ phiếu, quy định về công bố thông tin đối với doanh nghiệp niêm yết và đại chúng được thực hiện theo Thông tư 96. Hàng năm các sở chấm điểm đối với các doanh nghiệp thực hành ESG.
Với Thông tư 96, hy vọng các doanh nghiệp sẽ thực hiện các quy định sát hơn về tiêu chí ESG theo thông lệ quốc tế. Chúng tôi cũng có 1 bộ chỉ số về doanh nghiệp bền vững tại HoSE, phát hành từ 2017. Theo đó, chúng tôi chọn ra 20 doanh nghiệp trong chỉ số VN100, có giá trị vốn hoá lớn, thực hành ESG hướng tới năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, chuyển đổi xanh mạnh mẽ.
Trong thời gian tới, để tăng cường phát triển cho các doanh nghiệp thực hành ESG, chúng tôi sẽ có điều chỉnh đối với các bộ chỉ số để bao gồm các đối tượng có vốn hoá không cao như trong các doanh nghiệp thuộc chỉ số VN100 mà thực hiện tốt phát triển bền vững. Về thị trường tín chỉ carbon, Nghị định sàn giao dịch tín chỉ carbon do Bộ Tài chính chủ trì dự thảo.
Dự thảo đã thông qua bước trình bộ Tư pháp thẩm định. Dự kiến tín chỉ carbon sẽ được giao dịch tại HNX và thực hiện qua VSD.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Tiếp theo xin mời ý kiến ông Phùng Xuân Minh, Chủ tịch Saigon Ratings. Việc huy động vốn qua thị trường vốn để đảm bảo an ninh năng lượng trong tham luận ông đã nêu ra rất nhiều giải pháp. Ông có thể cụ thể hơn một số giải pháp trọng tâm để phát triển mạnh kênh trái phiếu xanh trong thời gian tới?
Ông Phùng Xuân Minh: Các tổ chức quốc tế rất quan tâm đến phân tích rủi ro của trái phiếu xanh. Chúng tôi cảm thấy rất vui về việc Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức hội thảo ý nghĩa này. Trong phát biểu về việc hợp tác với Anh Quốc mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập đến việc hợp tác về chuyển đổi xanh.
Gần đây, tại hội thảo tại Hà Nội, các chuyên gia quốc tế đã hiến kế cho việc ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam. An ninh năng lượng là vấn đề bao trùm của Nghị quyết 70. Vừa qua Saigon Ratings hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế, từ đó đề xuất cho Chính phủ các biện pháp huy động vốn, gắn với phát triển xanh.
 
Về góc độ tài chính xanh, chúng ta có trái phiếu, cổ phiếu xanh, thị trường carbon… Qua thực tiễn xếp hạng các tổ chức năng lượng tái tạo, chúng tôi nhân thấy họ gặp rất nhiều vướng mắc. Khi nghiên cứu xây dựng luật, chúng ta đề ra rất nhiều quy định về vĩ mô, nhưng các quy định này lại gặp nhiều vướng mắc trong thực thi. Hiện chúng ta gặp khó trong vấn đề thông lệ quốc tế, huy động vốn từ các tổ chức quốc tế.
Mấu chốt là chúng ta đảm bảo được các thông lệ, tiêu chuẩn để các tổ chức quốc tế đầu tư vào Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực năng lượng tái tạo gặp vướng mắc về rủi ro tài chính, nên họ kỳ vọng Nhà nước có các ưu đãi để tháo gỡ khó khăn. Nếu không được tháo gỡ, nhiều doanh nghiệp sẽ rất khó khăn, thậm chí phá sản.
Từ đó, nhiều doanh nghiệp khác nhận thấy họ sẽ gặp khó khăn về tài chính xanh và huy động vốn, và sẽ không hào hứng với kênh này. Hy vọng Nghị quyết của Quốc hội sắp tới sẽ tạo hành lang pháp lý, thúc đẩy thêm việc phát triển năng lượng tái tạo.
Các tổ chức quốc tế khi làm việc với chúng tôi rất quan tâm về phân tích rủi ro, mong được kết nối những doanh nghiệp có tiềm năng thực hiện các dự án xanh để họ chủ động liên kết; và quy trình thẩm định trái phiếu xanh ra sao, để minh bạch thông tin. Nhiều ngân hàng vừa qua phát hành các gói nhiều nghìn tỷ, nhưng chính các ngân hàng cũng gặp khó khăn về tiếp cận vốn.
TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin mời TS. Lê Đức Khánh, Giám đốc Phân tích đầu tư, CTCP Chứng khoán VPS, nhìn từ góc độ một công ty chứng khoán hàng đầu, ông có đề xuất gì để thúc đẩy thị trường vốn xanh tại Việt Nam? Thảo luận hôm nay đã có đề xuất cần phát triển quỹ đầu tư xanh tại Việt Nam, ông bình luận gì về đề xuất này?
TS. Lê Đức Khánh: Một trong các nghiệp vụ lớn của công ty chứng khoán là tư vấn, cổ phần hóa, bảo lãnh phát hành. Trong nhiều năm, các CTCK đã tập trung ở mảng cổ phiếu, phát hành tư vấn, trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh. Đây cũng là một trong các định hướng của các công ty Top đầu, đặc biệt là Chứng khoán VPS.
 
Kiến nghị các doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu chưa đáp ứng tiêu chuẩn niêm yết, thì có thể giao dịch trên UPCOM, bước đầu trở thành công ty đại chúng và được nhà đầu tư biết đến nhiều hơn. Một khi TTCK Việt Nam được nâng hạng, các công ty sẽ được quan tâm nhiều hơn.
Liên quan đến bộ chỉ số, nếu có doanh nghiêp nhỏ và vừa được xếp hạng tốt thì cũng nên được đưa vào bộ chỉ số. Việc bảo lãnh phát hành cho cổ phiếu, trái phiếu xanh cũng là vai trò của CTCK trong việc đánh giá, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các dự án huy động vốn trên TTCK.
Đặc biệt, doanh nghiệp cần tập trung hoạt động quan hệ nhà đầu tư (IR). IR là cầu nối giữa doanh nghiệp - cổ đông, và các nhà đầu tư tiềm năng, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngân hàng và công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ IB và làm cầu nối giữa nhà đầu tư trong nước và doanh nghiệp nước ngoài….
Ngoài ra, với quỹ đầu tư, có những quỹ đầu tư thụ động theo chỉ số, hedge fund quan tâm cổ phiếu năng lượng. CTCK cũng có thể làm đầu mối cùng phối hợp tạo ra quỹ đầu tư tài trợ dự án năng lượng xanh. Đây cũng là một giải pháp hợp lý trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh phát triển năng lượng trong thời gian tới.
 
TBT Phạm Đức Sơn: Thay mặt BBT Tạp chí Nhà đầu tư, BTC hội thảo, một lần nữa xin dành lời cảm ơn các chuyên gia đã gửi tham luận, đóng góp ý kiến thiết thực cho hội thảo. Như ông Phan Đức Hiếu đã "đặt hàng", ngay sau khi hội thảo kết thúc, BTC sẽ tổng hợp các ý kiến và dự thảo báo cáo trình cơ quan chủ quản là Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, để Hiệp hội báo cáo lên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng như Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội để giúp đại biểu có thêm cơ sở nhằm thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thể chế hóa Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị.
Tạp chí Nhà đầu tư cũng mong muốn sẽ tiếp tục được đồng hành cùng cộng đồng nhà đầu tư, doanh nghiệp trong các sự kiện tiếp theo để tháo gỡ những vướng mắc rào cản trong hoạt động đầu tư kinh doanh, kiến tạo một môi trường kinh doanh thông thoáng. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

10:13:00 AM GMT+7Thứ 6, 31/10/2025

10:11:00 AM GMT+7Thứ 6, 31/10/2025

10:04:00 AM GMT+7Thứ 6, 31/10/2025
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Kim Liên, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
| Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
| Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: | 
| 📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 | 
| + 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn | |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global