Thứ 3, 16/09/2025 | English | Vietnamese
03:46:00 PM GMT+7Thứ 6, 12/09/2025
Là mảnh ghép còn thiếu trong hệ sinh thái tài chính, mô hình ngân hàng đầu tư tại Việt Nam gặp phải rào cản pháp lý và nhiều lo ngại về an toàn hệ thống.
Đến nay, một trong những trở ngại lớn nhất khiến mô hình ngân hàng đầu tư vẫn là mảnh ghép còn thiếu trong hệ sinh thái tài chính – ngân hàng tại Việt Nam chính là khung pháp lý.
Trao đổi với VietnamFinance, Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc Công ty Luật Basico, nhận định, khung pháp lý dành cho nghiệp vụ ngân hàng đầu tư chưa tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Trên thị trường vốn và thị trường tài chính, các định chế tài chính chưa được khai thác hết tiềm lực, trong khi bản thân thị trường cũng chưa hội tụ đủ yếu tố minh bạch để hoạt động ngân hàng đầu tư có thể bứt phá.
Lấy ngân hàng – định chế tài chính có tiềm lực lớn nhất làm ví dụ, ông Hải chỉ ra rằng các ngân hàng bị hạn chế triển khai hoạt động IB trong giới hạn pháp lý rất nghiêm ngặt
Khoản 1 Điều 137 về “Giới hạn góp vốn, mua cổ phần”, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 quy định như sau: “1. Mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại và công ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại đó vào một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quy định tại khoản 4 Điều 111 của Luật này không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp”.
Luật sư Trần Minh Hải phân tích: “Quy định nêu trên có nghĩa ngân hàng không thể nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp hoặc đầu tư gián tiếp một cách hiệu quả (vì tối đa chỉ được sở hữu 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp). Giới hạn về tỷ lệ sở hữu phần vốn góp của doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho ngân hàng chùn bước khi quyết định đầu tư vì không đạt được hiệu suất và không đạt được hoàn toàn ý nghĩa của hoạt động ngân hàng đầu tư”.
Ngoài ra, ngân hàng còn bị hạn chế trong việc góp vốn, mua cổ phần doanh nghiệp trên cơ sở vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của chính ngân hàng đó. Khoản 2 Điều 137 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 quy định: Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại vào các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, kể cả công ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại đó theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 8 Điều 111 của Luật này không được vượt quá 40% vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng thương mại.
Ông Hải cho rằng, thay vì dựa trên tổng tài sản của ngân hàng (có thể là một giá trị rất lớn) thì quy định pháp luật hiện hành lại giới hạn tổng mức đầu tư của ngân hàng dựa trên vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng. Điều này làm cho việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư trở nên khó khăn mặc dù ngân hàng có nguồn lực tài chính dồi dào.
Một rào cản khác là việc góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp không thuộc danh mục tại điểm a, Khoản 4, Điều 111 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024. Trong trường hợp này, ngân hàng bắt buộc phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
Luật sư Trần Minh Hải nhận xét: “Lấy định chế tài chính ngân hàng làm thí điểm, thì chúng ta thấy khung pháp lý quả thật chưa thực sự dễ dàng để tạo thúc đẩy trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam”.
Theo Luật sư Trần Minh Hải, để hình thành một môi trường thuận lợi cho nghiệp vụ ngân hàng đầu tư phát triển, cần đảm bảo ba yếu tố: tính minh bạch, sự tuân thủ và hành lang pháp lý rõ ràng. Ông cho rằng, nếu có một “thời điểm vàng” cho việc hình thành nghiệp vụ ngân hàng đầu tư chuyên nghiệp tại Việt Nam, thì đó phải là khi ba yếu tố này hội tụ đầy đủ.
Tính minh bạch cần được xây dựng trước hết với hệ thống định chế tài chính trên cả thị trường chứng khoán và thị trường ngân hàng. Trong quá khứ, sự thiếu minh bạch trong quản trị điều hành, chất lượng tài sản, báo cáo tài chính đã tạo nên những sai phạm nghiêm trọng như các đại án ngân hàng từng chứng minh. Vậy thì một hệ thống định chế tài chính được minh bạch hóa, sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy nghiệp vụ ngân hàng đầu tư.
Không chỉ ngân hàng, các doanh nghiệp – đối tượng mục tiêu của nghiệp vụ ngân hàng đầu tư – cũng phải minh bạch. Từ việc lập báo cáo tài chính, quản trị điều hành đến quản lý hoạt động đều cần được tuân thủ và giám sát chặt chẽ. Môi trường lý tưởng cho sự minh bạch đó chính là hệ thống khung pháp lý với những vấn đề quản lý rõ ràng, vừa buộc doanh nghiệp phải tuân thủ, vừa hỗ trợ doanh nghiệp.
Liên hệ đến bài học từ thế giới, TS Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, nhắc lại cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, trong đó ngân hàng đầu tư là tâm điểm.
Ông phân tích: “Việc chứng khoán hoá các khoản vay bất động sản rồi bán lại cho các ngân hàng đầu tư và các tổ chức tài chính khác, đã dẫn đến sự đổ bể của 2 ngân hàng đầu tư Bear Stearns và Lehman Brothers, làm cả thế giới trở nên ám ảnh với mô hình ngân hàng đầu tư bởi lo ngại về sự rủi ro lớn”.
Theo TS Nghĩa, ngân hàng đầu tư chủ yếu tham gia vào các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao, trong khi họ không được phép huy động tiền gửi và cũng không được quỹ bảo hiểm tiền gửi bảo đảm. Cơ chế quản trị rủi ro tại các ngân hàng đầu tư lại thiếu chặt chẽ, không được quản lý và giám sát nghiêm ngặt như ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, các quy định an toàn mà ngân hàng thương mại phải tuân thủ, như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản có rủi ro hay chuẩn Basel II, Basel III, đều không áp dụng cho ngân hàng đầu tư. Vì vậy, khi rơi vào khủng hoảng, sự đổ vỡ của ngân hàng đầu tư có thể kéo theo sự sụp đổ của ngân hàng thương mại và gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho toàn hệ thống tài chính.
Website nội bộ của VCCI
Liên kết nhanh
Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI
Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI
Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI | ||
Văn Phòng - Lễ tân: | Phụ trách website: | Liên hệ quảng cáo: |
📞 + 84-24-35742022 | 📞 + 84-24-35743084 | 📞 + 84-24-35743084 |
+ 84-24-35742020 | vcci@vcci.com.vn |
Truy cập phiên bản website cũ. Thiết kế và phát triển bởi ADT Global