VCCI logo

LIÊN ĐOÀN THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Vietnam Chamber of Commerce and Industry

Thứ 3, 19/08/2025 | English | Vietnamese

Trang chủTin tổng hợpCông nghiệp-thương mại: Dấu ấn đột phá trong hành trình đổi mới và hội nhập

Công nghiệp-thương mại: Dấu ấn đột phá trong hành trình đổi mới và hội nhập

09:19:00 AM GMT+7Thứ 3, 19/08/2025

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta trong 8 thập kỷ qua giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tới, sẵn sàng cho kỷ nguyên vươn mình.

Ngày 2/9/1945 đánh dầu một bước ngoặt lịch sử cho cả dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc tại Quảng trường Ba Đình là một văn kiện lịch sử vô giá, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) khẳng định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhân dân ta là quyền độc lập-tự do là khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền tự do độc lập ấy.

Gắn liền với sự kiện lịch sử đó, trong suốt tám thập kỷ qua, kinh tế Việt Nam đã liên tục thay đổi và vươn mình bứt phá, đưa đất nước từ kiệt quệ, đói nghèo đến độc lập, tự chủ và phát triển năng động, góp phần đưa thương hiệu “Made in Việt Nam” từng bước vươn lên và giữ vị trí cao trong bản đồ kinh tế thế giới.

Sau 80 năm đấu tranh gìn giữ nền độc lập và kiến thiết, đổi mới, xây dựng đất nước, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD năm 2024, tăng khoảng 63 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.

Theo dữ liệu từ Quỹ tiền tiền tệ quốc tế (IMF), quy mô GDP Việt Nam theo giá hiện hành vào năm 1986 ghi nhận ở mức 43 tỷ USD. Đến năm 2008, sau hơn hai thập kỷ, con số này đã tăng lên mức 125 tỷ USD, cao gần gấp 3 lần so với thời điểm 1986.

Trong giai đoạn tiếp theo, Việt Nam chỉ mất 15 năm để quy mô kinh tế tăng từ mức 100 tỷ USD lên mức 400 tỷ USD. Cụ thể, quy mô GDP của Việt Nam đã đạt 408 tỷ USD vào năm 2022 và đạt 433,7 tỷ USD vào năm 2023. Đáng chú ý, năm 2024, với GDP đạt 476,3 tỷ USD, quy mô kinh tế của Việt Nam năm 2024 cao thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á, nếu xét trên thế giới, Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới.

Cùng với đó, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2025 dự kiến vượt 900 tỷ USD; xuất siêu 9 năm liên tiếp; thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới.

Hơn nữa, từ nước thiếu hụt lương thực trầm trọng, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; năm 2024 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt mức kỷ lục 9,18 triệu tấn với kim ngạch 5,75 tỷ USD, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu; nông sản Việt Nam đã có mặt tại hơn 160 quốc gia.

Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện; Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đến nay, Việt Nam đã thu hút được hàng trăm tỷ USD vốn FDI, trở thành một trong 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới, là một mắt xích quan trọng trong 17 FTA gắn kết với hơn 60 nền kinh tế quan trọng trên thế giới. Việt Nam đã trở thành một trung tâm sản xuất, nằm trong chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu của nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, như Samsung, LG, Intel, Apple, GE, Foxconn…

vna-potal-bac-giang-thu-hut-dau-tu-fdi-lien-tuc-duy-tri-trong-nhom-10-tinh-thanh-pho-dan-dau-ca-nuoc-6190730.jpg
Thu hút đầu tư FDI của Bắc Giang liên tục tăng. (Ảnh: TTXVN)

Theo Brand Finance, năm 2024, giá trị Thương hiệu quốc gia Việt Nam được định giá 507 tỷ USD, xếp hạng 32 thế giới, tăng 1 bậc so với năm 2023. Đó là kết quả của từ những nỗ lực của Chính phủ trong cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, hỗ trợ thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp, đồng thời, cũng là sự khẳng định vị thế hàng đầu vững chắc của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao, cả về lợi nhuận và doanh thu, giữ vững thị trường nội địa và phát triển thị trường xuất khẩu, dù gặp phải không ít khó khăn, thách thức.

Chặng đường 80 năm phát triển kinh tế Việt Nam là hành trình lịch sử hào hùng, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của cả dân tộc. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta trong 8 thập kỷ qua không chỉ giúp Việt Nam kiến tạo vị thế mà còn tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo, như lời của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.”

Với mong muốn cung cấp cho độc giả cái nhìn toàn diện và sâu sắc về những thành tựu của đất nước trong suốt 80 năm qua, Báo Điện tử VietnamPlus trân trọng giới thiệu chùm bài: 80 năm dựng xây và phát triển: Những trụ cột kinh tế kiến tạo vị thế "Rạng rỡ Việt Nam"

Bài 1: Công nghiệp-thương mại: Dấu ấn đột phá trong hành trình đổi mới và hội nhập

Từ một nền kinh tế hết sức khó khăn, kiệt quệ, trải qua 80 năm bền bỉ với những quyết sách quan trọng để mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã vươn lên thành nền kinh tế có quy mô GDP xếp thứ tư Đông Nam Á, nằm trong Top 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới.

Bước tiến vượt bậc của xuất nhập khẩu

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc.” Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, các ngành sản xuất đều bị sa sút, ngưng trệ, hàng hóa khan hiếm, thị trường rơi vào tình trạng đình đốn, tiêu điều.

Để phát triển kinh tế, Nhà nước khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất nông nghiệp và các sản phẩm thiết yếu dân sinh như vải mặc, đường, mực, phấn viết, các đồ dùng gia đình, hóa chất, giấy, dệt, diêm, xà phòng, thuốc đánh răng, dầu, nung vôi, đóng gạch ngói, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm và tự do giao thương hàng hóa; miễn thuế cho những nghề phụ gia đình, những xí nghiệp sản xuất hàng hóa cho quân đội, những xí nghiệp hoạt động trong những điều kiện đặc biệt khó khăn; khuyến khích khôi phục hoạt động các làng nghề, các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và thủ công nghiệp phục vụ cho quốc phòng và dân sinh.

Đại diện Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết ở giai đoạn đầu, khi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra trong bối cảnh đất nước chia cắt, vừa sản xuất vừa chiến đấu, các hoạt động xuất khẩu không diễn ra nhiều, các hoạt động ngoại thương chủ yếu là nhập khẩu.

2022-05-19-04-48-4227-3d33a.jpg
Công nhân Nhà máy Cơ khí Duyên Hải, Hải Phòng, lá cờ đầu của ngành công nghiệp, nơi khởi phát phong trào Sóng Duyên Hải 1961-1962. (Ảnh: TTXVN)

Trong các hoạt động nhập khẩu, việc dùng ngoại tệ của Nhà nước để trao đổi, mua bán hàng hóa rất ít. Nhập khẩu thực chất là sự tiếp nhận viện trợ từ các nước bên ngoài, chủ yếu với mục đích tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, duy trì và phát triển sản xuất, phục vụ chiến đấu, chi viện cho miền Nam.

Giai đoạn này, hoạt động ngoại thương đã đóng góp được một phần trong việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Năm 1955, hoạt động xuất khẩu chỉ được thực hiện bó hẹp với thị trường 10 nước, đến 1969 đã tăng lên 30 nước.

Năm 1986, đánh dấu một bước chuyển lịch sử cho tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. Chuyên gia Nguyễn Chí Hải, Nguyên Trưởng Khoa Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh cho biết Việt Nam đã trải qua những năm đầu đổi mới với những khó khăn lớn của hoạt động xuất nhập khẩu khi phải nhập khẩu rất nhiều mặt hàng, kể cả gạo. Song, ngay những ngày tháng khó khăn đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) xác định, xuất khẩu hàng hóa là 1 trong 3 mặt trận của nền kinh tế thời kỳ đổi mới (bên cạnh sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng).

Hội nghị giữa nhiệm kỳ (Khóa VII) của Đảng xác định, chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là “Kiên trì hướng về xuất khẩu là hướng chính, đồng thời thay thế nhập khẩu một số sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.”

Nhờ những quyết sách mạnh mẽ và đúng đắn, trong giai đoạn đầu, từ năm 1991 đến 2010, tăng trưởng xuất khẩu hằng năm của Việt Nam luôn đạt tốc độ cao, ở mức 2 con số, thậm chí có những năm lên đến trên 15%. Giai đoạn từ năm 2011 đến 2022, tốc độ tăng của tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đạt trung bình 12,6%/năm.

Nếu năm 1991, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ đạt 2,087 tỷ USD (nhập khẩu đạt 2,338 tỷ USD), thì đến năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 162,016 tỷ USD (nhập khẩu đạt 165,775 tỷ USD), tăng gấp 77,63 lần. Đến năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp 2,29 lần năm 2015 và 177,9 lần năm 1991.

vna-potal-thu-hut-fdi-cua-dong-nai-vuot-ke-hoach-nam-7015248.jpg
Công nhân làm việc tại Công ty Cơ khí Động lực Toàn Cầu, khu công nghiệp Giang Điền, huyện Trảng Bom (Đồng Nai). (Ảnh: TTXVN)

Từ kết quả ấn tượng đó, soi chiếu vào hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước, có thể thấy, điểm sáng đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao trong suốt hơn 3 thập kỷ, ngay cả thời gian đại dịch COVID-19 (2019-2021). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tính trong cả thời kỳ từ năm 1992 đến 2022 (31 năm) đạt trung bình 17,96%/năm. Việt Nam trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hàng đầu thế giới hơn 30 năm qua.

Bên cạnh đó, từ năm 2016 đến 2024, nền kinh tế Việt Nam đã có 9 năm xuất siêu liên tục, trong đó điểm nổi bật là tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đã tiến gần mốc 800 tỷ USD vào năm 2024, cao nhất từ trước đến nay.

Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh nhìn nhận, trong bức tranh xuất khẩu năm 2024, khu vực kinh tế trong nước tiếp tục tăng trưởng cao hơn khu vực FDI và tỷ trọng về kim ngạch xuất khẩu của khu vực trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cao hơn so với cùng kỳ năm trước.

“Mặc dù tỷ trọng về kim ngạch xuất khẩu của khu vực trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ghi nhận mức tăng thêm chưa nhiều, từ con số 25-26%, nay tăng lên khoảng 27-28%, nhưng đây cũng là điều đáng trân quý. Bởi lẽ, hoạt động xuất khẩu hàng công nghệ giá trị cao thông thường các doanh nghiệp có vốn FDI sẽ có năng lực xuất khẩu tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam, giá trị hàng công nghiệp chế biến chế tạo xuất khẩu cũng nhiều hơn,” ông cho biết.

Trong bức tranh xuất khẩu năm 2024, khu vực kinh tế trong nước tiếp tục tăng trưởng cao hơn khu vực FDI và tỷ trọng về kim ngạch xuất khẩu của khu vực trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cao hơn so với cùng kỳ năm trước.

Hiện hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt tại gần 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó có các thị trường lớn và khó tính, như Mỹ, Nhật Bản và EU. Đặc biệt, hiện nay, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển dịch căn bản, từ thâm dụng sản phẩm nguyên liệu, hàng sơ chế sang các sản phẩm chế biến, chế tạo.

Đối với hàng nông sản, sản lượng xuất khẩu các sản phẩm giá trị cao cũng ngày càng tăng lên. Nhiều mặt hàng đã thâm nhập được vào các thị trường lớn và chính thức theo con đường chính ngạch, đáp ứng yêu cầu của việc ổn định xuất khẩu lâu dài của nền kinh tế.

Cùng với sự phát triển của lĩnh vực nông lâm nghiệp, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ chốt, dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,8%.

Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) chia sẻ, những năm đầu thập niên 2000, khi Việt Nam mở cửa hội nhập, ngành chúng ta đã có những bước chuyển mình táo bạo, từ việc chuẩn bị kỹ lưỡng để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đến phát triển chuỗi cung ứng, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị gia tăng.

Với chiến lược đúng đắn từ “cánh chim đầu đàn” Vinatex, cùng bản lĩnh kiên trì, tinh thần không ngừng học hỏi của mỗi cán bộ bộ công nhân viên-người lao động, ngành Dệt May Việt Nam đã từng bước vượt qua thử thách, vươn tầm thế giới, trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực với kim ngạch đạt hơn 40 tỷ USD mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.

“Ngành Dệt May Việt Nam hôm nay khi đứng Top 3 trên thị trường dệt may quốc tế, chính là nhờ chiến lược đúng đắn, tinh thần tự chủ-tự lực-tự cường và sự đoàn kết bền chặt của những con người Dệt May không ngừng sáng tạo, đổi mới, tận tâm với từng đường kim, mũi chỉ. Đặc biệt, trong những giai đoạn khó khăn nhất, tinh thần ấy càng rực sáng,” ông Lê Tiến Trường nói.

vna-potal-xuat-khau-det-may-dat-35-ty-usd-nam-2020-144419817-5211031.jpg
May hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản của Công ty cổ phần may Hưng Việt, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh: TTXVN)

Trong khi đó, với ngành dầu khí, kể từ khi tấn dầu thô đầu tiên được khai thác năm 1986, đến cuối năm 2023, ngành Dầu khí Việt Nam đã khai thác được hơn 460 triệu tấn dầu trong nước và khoảng 200 tỷ m3 khí. Hoạt động dầu khí bao phủ hầu hết thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.

Hằng năm, Petrovietnam cung cấp gần 9-11 tỷ m3 khí cho sản xuất 35% sản lượng điện quốc gia, 70% sản lượng đạm và 70-80% lượng khí cho các hộ tiêu thụ dân dụng của cả nước.

Petrovietnam cũng là doanh nghiệp đứng thứ 2 về cung cấp điện với tổng công suất các nhà máy điện đạt 6.605 MW, chiếm khoảng 15% tổng sản lượng điện quốc gia. Hai nhà máy Đạm Cà Mau và Đạm Phú Mỹ của Tập đoàn cung cấp ra thị trường trên 1,6 triệu tấn urê/năm, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu phân bón trong nước, góp phần chấm dứt tình trạng khan hiếm phân bón, phụ thuộc vào phân bón nhập khẩu.

Mở ra giai đoạn phát triển mới

Năm năm gần đây có thể nói là giai đoạn kinh tế thế giới có nhiều biến động. Xung đột thương mại tại nhiều khu vực đã tác động đến chuỗi cung ứng toàn cầu, cùng với đó, xu hướng bảo hộ thương mại khiến hàng hóa nhập khẩu phải vượt qua nhiều rào cản kỹ thuật, chưa kể chính sách thương mại đối ứng gần đây của Hoa Kỳ đã tác động mạnh tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội, doanh nghiệp, xuất nhập khẩu của nước ta đạt được những kết quả hết sức tích cực.

Đáng chú ý, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng từ 80,3% kim ngạch xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2019 và 88% trong năm 2024. Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 2% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2016 xuống còn 1% năm 2024. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD tăng dần, từ 28 mặt hàng năm 2016 lên 37 mặt hàng năm 2024 (trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD).

anh-2.jpg
Hằng năm, Petrovietnam cung cấp gần 9-11 tỷ m3 khí cho sản xuất 35% sản lượng điện quốc gia, 70% sản lượng đạm và 70-80% lượng khí cho các hộ tiêu thụ dân dụng của cả nước. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Đặc biệt, việc khai thác các Hiệp định thương mại tự do cũng đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần phát triển xuất khẩu nhanh và bền vững, giảm dần phụ thuộc vào một hay một vài thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng các loại C/O ưu đãi theo FTA trung bình đạt 32% -34%/năm. Kết quả này phản ánh doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang dần nâng cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan tại các thị trường có FTA với Việt Nam. Hiệp định EVFTA dù mới được đưa vào thực thi từ tháng 8 năm 2020 nhưng đã có những tín hiệu tích cực trong công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

Nhờ những nỗ lực từ phía cả khu vực công và cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu trong thời gian qua đã có những kết quả rực rỡ. Xuất khẩu góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, cải kiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động và tạo động lực đổi mới sáng tạo trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Ngành Dệt May Việt Nam hôm nay khi đứng Top 3 trên thị trường dệt may quốc tế, chính là nhờ chiến lược đúng đắn, tinh thần tự chủ-tự lực-tự cường và sự đoàn kết bền chặt của những con người.

Tương tự, ngành công nghiệp Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ. Từ một nền công nghiệp lạc hậu, quy mô nhỏ, đến nay Việt Nam đã hình thành được nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, cơ khí, dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, năng lượng tái tạo…, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo hiện đóng góp gần 25% GDP, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2024 tăng 8,4% so với năm trước, mức cao nhất kể từ năm 2020, vượt mục tiêu đề ra từ 7-8%. Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam đã thu hút tổng cộng 502,8 tỷ USD vốn FDI, trong đó 308,76 tỷ USD tập trung vào lĩnh vực chế biến, chế tạo.

Bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày-Túi xách Việt Nam (lefaso) cho biết ngành da giày Việt Nam về sản xuất đứng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ, xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới sau Trung Quốc. Ngành đang có nhiều lợi thế về nhân lực, ưu đãi thuế quan từ các hiệp định thương mại tự do… để vươn lên vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất của thế giới.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP… gắn kết Việt Nam với trên 60 nền kinh tế lớn không chỉ mở rộng thị trường xuất khẩu mà còn giúp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và chuẩn hóa quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế.

Tiến sỹ Lê Quốc Phương, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin công nghiệp-thương mại (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, nhiều mặt hàng của Việt Nam đứng Top đầu xuất khẩu như: gạo, hạt tiêu, hạt điều, càphê, dệt may, giày dép… tức là đã có thể xếp Việt Nam vào một trong những cường quốc về xuất khẩu. Điểm nhấn là quy mô GDP của Việt Nam năm 2024 tăng khoảng 106 lần so với năm 1986, xếp thứ 34 nền kinh tế thế giới.

084a4442.jpg
Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã phát triển được nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn, (Ảnh: Đức Duy/Vietnam+)

Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã phát triển được nhiều ngành công nghiệp, trong đó có các ngành như: Khai thác, chế biến dầu khí; ngành điện tử-viễn thông-công nghệ thông tin; ngành luyện kim, sắt thép; sản xuất xi măng-vật liệu xây dựng; ngành dệt may, da giày; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo…, các ngành này tạo đà cho việc phát triển kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

“Nếu theo chỉ số cạnh tranh toàn cầu về công nghiệp, Việt Nam là quốc gia có năng lực cạnh tranh tương đối cao, hiện Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp của khu vực và thế giới,” tiến sỹ Lê Quốc Phương dẫn chứng.

Từ những thành tựu trên, theo ông, đến nay nền kinh tế của Việt Nam đã chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, trong đó năm 2024, lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 38% còn dịch vụ chiếm 42,4%

Về xuất nhập khẩu, chuyên gia này cũng đánh giá sự tăng trưởng vượt bậc của lĩnh vực này, đóng góp tích cực cho tăng trưởng của nền kinh tế. Theo đó, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đến năm 2024, xuất khẩu của Việt Nam xếp thứ 23 các cường quốc trên thế giới, còn nhập khẩu đứng thứ 22 trên thế giới.

“Từ một nước chủ yếu nhập khẩu, đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã trở thành một cường quốc xuất khẩu trên thế giới,” tiến sỹ Lê Quốc Phương nêu dẫn chứng.

Với định hướng tới năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển cao, theo ông Phương, các chính sách phải khắc phục được các hạn chế, chuyển trọng tâm từ phát triển theo chiều rộng, dựa vào lao động, tài nguyên, vốn… sang tăng trưởng nền kinh tế theo chiều sâu, dựa vào đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, dựa vào khoa học công nghệ, lúc đó nền kinh tế mới phát triển được mạnh.

Bên cạnh đó, trước bối cảnh kinh tế thế giới luôn vận động và thay đổi, để phát triển, theo ông doanh nghiệp cũng phải thích ứng để nâng cao năng lực cạnh tranh, trong đó phải không ngừng đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, đồng thời phải đầu tư vào công nghệ mới, vào dữ liệu và có chiến lược kinh doanh linh hoạt để thích ứng với các biến động của thị trường và tập trung cho phát triển bền vững (như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…), mở rộng thị trường mới và có quan hệ với các đối tác.

Nhìn lại toàn bộ hành trình 80 năm qua, thành tựu kinh tế Việt Nam đã đạt được là rất to lớn, ghi nhiều dấu ấn mang tính lịch sử. Về phía Bộ Công Thương bà Nguyễn Cẩm Trang, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) chia sẻ, Bộ Công Thương sẽ tập trung vào các vấn đề chủ yếu liên quan đến công tác phát triển thị trường, cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp, trong đó, Bộ đã chỉ đạo mạng lưới thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc quảng bá nỗ lực của doanh nghiệp Việt trong việc thích ứng, đáp ứng được các tiêu chuẩn xanh của các nước.

Các nội dung hướng dẫn, thông tin liên quan đến quy định của nước ngoài, các sổ tay cũng sẽ được triển khai thực hiện để đưa đến cho hiệp hội, doanh nghiệp các thông tin kịp thời, nhanh nhất để doanh nghiệp có thể chủ động kế hoạch sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của thị trường./.

vna-potal-bac-giang-thu-hut-dau-tu-fdi-lien-tuc-duy-tri-trong-nhom-10-tinh-thanh-pho-dan-dau-ca-nuoc-6190732.jpg
Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. (Ảnh: TTXVN)
TheoĐức Duy (Vietnam+)
Copy link

Văn bản pháp luật

Liên kết

Website nội bộ của VCCI

Footer logo

Bản quyền bởi Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI 

  Tòa VCCI, Số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

Giấy phép xuất bản số 190/GP-TTĐT cấp ngày 27/10/2023

Người chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI

Quản lý và vận hành: Trung tâm Truyền thông và Thông tin Kinh tế - VCCI
Văn Phòng - Lễ tân:  Phụ trách website: Liên hệ quảng cáo:
📞 + 84-24-35742022 📞 + 84-24-35743084 📞 + 84-24-35743084
 + 84-24-35742020   vcci@vcci.com.vn   

Truy cập phiên bản website cũ.                                                     Thiết kế và phát triển bởi ADT Global