Cơ chế ưu việt nhưng doanh nghiệp chưa chủ động quan tâm

Các DN nếu thỏa mãn điều kiện về kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu sẽ có cơ hội rất lớn để áp dụng được cơ chế DN ưu tiên. Ảnh minh họa: TL

Nhiều lợi ích thiết thực

Chia sẻ xung quanh vấn đề này, ông Bùi Ngọc Tuấn - Phó Tổng Giám đốc Dịch vụ Tư vấn thuế và hải quan (Deloitte Việt Nam) cho biết, theo khung tiêu chuẩn SAFE về đảm bảo và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), những lợi ích của cơ chế doanh nghiệp ưu tiên (DNƯT) được chia thành 2 nhóm. Nhóm các lợi ích chung bao gồm các chính sách giảm thiểu thủ tục hành chính, giảm thời gian giao nhận, lưu kho hàng hóa, ưu tiên trong tiếp cận thông tin và trao đổi với chính phủ và các cơ quan,... Nhóm các lợi ích cụ thể cho từng bên trong giao dịch xuất nhập khẩu bao gồm người xuất khẩu, người nhập khẩu, đơn vị cung cấp dịch vụ kho bãi, đơn vị cung cấp dịch vụ logistics,...

Quy định về DNƯT hiện hành đã đưa ra một số lợi ích chung như: miễn kiểm tra chứng từ, miễn kiểm tra thực tế hàng hoá trong quá trình làm thủ tục hải quan, thông quan bằng tờ khai chưa hoàn chỉnh, các lợi ích về thời hạn nộp hồ sơ hải quan, xử lý nộp thuế...

Theo đánh giá của Deloitte Việt Nam, dù còn nhiều không gian chính sách được yêu cầu để bổ sung lợi ích cho DNƯT trong thời gian tới, nhưng cơ chế hiện nay đã giúp đơn giản hóa quy trình, tiết kiệm thời gian làm thủ tục hải quan, mang lại lợi ích không nhỏ về quản lý dòng tiền, cắt giảm đáng kể chi phí logistics, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hoá của các DN.

Cơ chế ưu tiên có thể xem là một trong những phương án khả thi để cắt giảm chi phí, tăng cường hiệu quả chuỗi cung ứng, đặc biệt đối với các DN trung bình và lớn trước tình hình Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp. Ở thời điểm hiện tại, các điều kiện quy định áp dụng cho DNƯT vẫn còn tương đối mở; các DN nếu thỏa mãn điều kiện về kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu sẽ có cơ hội rất lớn để áp dụng được cơ chế này.

Trong thương mại quốc tế, cơ chế DNƯT có thể coi như một chứng chỉ đảm bảo về độ tin cậy, năng lực kinh tế, và tính tuân thủ pháp luật của DN. Trong thời gian tới khi Việt Nam áp dụng Thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) với các nước như Hàn Quốc, ASEAN, DNƯT của Việt Nam có thể tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi được tiếp cận gần hơn, nhanh hơn với nhiều khách hàng mới và tiềm năng tại các nước đối tác.

DN chưa chủ động tìm hiểu, tận dụng lợi ích

Không thể phủ nhận những lợi ích do cơ chế này đem lại, nhưng số lượng DNƯT ở Việt Nam vẫn chỉ khiêm tốn dừng ở mức 2 con số (hơn 70 DN) sau hơn 10 năm triển khai. Phần lớn trong số đó là các DN có vốn đầu tư nước ngoài có kim ngạch xuất - nhập khẩu cao. Theo ông Bùi Ngọc Tuấn, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các DN chưa nắm rõ quy định, chưa có cơ hội kiểm chứng những lợi ích.

Một số DN đang hiểu nhầm rằng DNƯT là một loại hình riêng, bên cạnh các loại hình khác như DN chế xuất, DN thực hiện hoạt động sản xuất xuất khẩu, gia công xuất khẩu… Thực tế, đây là một cơ chế ưu đãi có thể áp dụng song song với các loại hình khác. Nếu DN chế xuất đồng thời hưởng cơ chế DNƯT mà có các giao dịch mua bán hàng trong nước, thì số lượng tờ khai xuất - nhập khẩu tại chỗ có thể được cắt giảm lớn, do có thể lựa chọn một ngày trong tháng để mở tờ khai thay vì theo từng lần giao hàng. Việc tỷ lệ phân luồng tờ khai vào luồng xanh gần như tuyệt đối sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho DNƯT để tiết kiệm thời gian giao nhận, làm thủ tục và lưu kho bãi, đặc biệt là đối với các mặt hàng trị giá lớn và chứa bí mật kinh doanh. 

Theo ông Tuấn, có thể thấy, hiện nay nhiều DN đủ điều kiện nhưng chưa chủ động tìm hiểu, tận dụng các lợi ích từ cơ chế DNƯT, thậm chí một số DN có tâm lý chờ đợi sự thay đổi của hành lang pháp lý. Trong tương lai gần, lợi ích từ cơ chế DNƯT có thể sẽ rõ ràng và phổ cập hơn, nhưng đồng thời, điều kiện áp dụng cũng có thể sẽ tiệm cận hơn với thông lệ quốc tế. Nói cách khác số lượng tiêu chí sẽ tăng lên cùng với mức độ “khó” của tiêu chí. Minh chứng cho quan điểm này, cơ quan hải quan đã đình chỉ thực hiện chế độ ưu tiên của một số DNƯT trong 2-3 năm gần đây, sau khi xác định DN không đáp ứng được các điều kiện quy định.

Ông Tuấn cho rằng, so với việc chờ thay đổi để thích nghi, việc nắm bắt thời cơ sẽ mang lại lợi ích hiệu quả và nhanh chóng, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường cho các DN. Vì vậy, các DN nên chủ động rà soát, đánh giá một cách đầy đủ, hoặc tham khảo ý kiến chuyên gia tư vấn về khả năng được áp dụng cơ chế sau khi tự đánh giá yếu tố cơ bản về kim ngạch xuất nhập khẩu.

Một nguyên nhân khác được ông Tuấn chỉ ra là điều kiện áp dụng DNƯT được quy định còn nhiều điểm chưa cụ thể. Trải qua 6 năm thực thi, Thông tư 72/2015/TT-BTC dần bộc lộ những điểm thiếu và chưa đạt được mục tiêu hỗ trợ cũng như tạo thuận lợi thương mại của Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan, còn chênh lệch giữa những quy định về lợi ích đối với cơ chế DNƯT tại Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Khắc phục điều này, hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan xem xét sửa đổi Nghị định 08/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hải quan cho phù hợp với thực tiễn các giao dịch và hoạt động của DN, trong đó có những nội dung liên quan tới DNƯT.

Theo Thảo Miên(Thời báo tài chính Việt nam)
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2021-07-22/co-che-uu-viet-nhung-doanh-nghiep-chua-chu-dong-quan-tam-107838.aspx