Logistics giống như “những bánh xe” của “cỗ xe” nền kinh tế đang vận hành không ngừng nghỉ. Không nền kinh tế nào có thể chuyển mình về phía trước nếu thiếu đi lực đẩy từ hoạt động logistics. Và trong thế kỷ XXI này, khi Việt Nam đang tiến trên “xa lộ” hội nhập quốc tế, chúng ta cần thêm nhiều động lực để “cỗ xe” kinh tế nhanh hơn, mạnh hơn và bền vững hơn. Một trong những động lực quan trọng đó chính là một ngành logistics phát triển thông minh hơn và có năng lực cạnh tranh quốc tế cao hơn.

Những cải cách từ phía Chính phủ và các bộ ngành nhằm cắt giảm chi phí logistics

Ngành logistics Việt Nam đã từng gặp vô vàn khó khăn trong quá trình phát triển. Từ cuối thập niên 1980, khi đất nước mở cửa theo đường lối Đổi mới, hoạt động logistics mới bắt đầu có những khởi sắc nhất định. Tuy nhiên, ngành logistics thời kỳ đầu chủ yếu vẫn phát triển một cách tự phát, thiếu bền vững với nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và cơ chế chính sách. 

Phải đến năm 2005, những chế định đầu tiên về dịch vụ logistics mới được ban hành thông qua Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định 140/2007/NĐ-CP năm 2007. Kể từ đó đến nay, Chính phủ ngày càng dành nhiều sự quan tâm hơn cho lĩnh vực logistics. Và có một điều trùng hợp kỳ lạ, có lẽ trong các ngành kinh tế ở Việt Nam chỉ có một ngành kinh tế sử dụng tên tiếng Anh mà không dịch ra Tiếng Việt là ngành dịch vụ Logistic, và chỉ có 1 nghề rất thân thiết với các gia đình cũng sử dụng trực tiếp tên nước ngoài  mà không cần dịch ra tiếng Việt là nghề osin. Có 1 điều gì đó tương đồng giữa ngành dịch vụ Logistic với nghề osin. Và chúng ta có thể nói rằng: Logistic là osin của nền kinh tế.

Cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận những nỗ lực của Chính phủ về việc xây dựng khung khổ chính sách mang tính toàn diện để phát triển ngành. Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật liên quan đến logistics có nhiều bước chuyển đáng kể, theo hướng cởi mở hơn về chính sách, loại bỏ các “nút thắt” về mặt thể chế để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động logistics nói riêng, môi trường kinh doanh nói chung. Một trong những chuyển biến lớn nhất trong các chính sách về logistic đó là cởi trói, trả lại quyền tự do kinh doanh cho ngành kinh doanh Logistic, đưa dịch vụ “Kinh doanh dịch vụ logistic” ra khỏi danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư 2020. Bên cạnh đó, một số dịch vụ logistics cụ thể như dịch vụ đại lý vận tải biển, dịch vụ vận tải biển nội địa và dịch vụ vận tải hàng hóa thủy nội địa cũng được loại bỏ các điều kiện về đăng ký kinh doanh.

 Chính phủ cũng quan tâm đến việc phát triển ngành logistics Việt Nam trong dài hạn, tiêu biểu như Quyết định 200/QĐ-TTg ban hành năm 2017 về kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, hay Nghị định 163/2017/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ logistics.

Cộng đồng doanh nghiệp cũng đặc biệt hoan nghênh những bước phát triển gần đây của Cơ chế một cửa quốc gia và một cửa ASEAN. Với 200 thủ tục hành chính của 13 bộ ngành đã kết nối tới hiện tại, Cơ chế một cửa quốc gia đã góp phần giảm đáng kể các chi phí tuân thủ pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu và logistics. Trong năm 2019 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng giao thêm nhiệm vụ điều phối phát triển logistics cho Ủy ban điều phối quốc gia về Một cửa ASEAN, Một cửa Quốc gia và Tạo thuận lợi thương mại (gọi tắt là Ủy ban 1899) tại Quyết định số 684/QĐ-TTg. Từ phía cộng đồng doanh nghiệp, tôi tin rằng đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn bởi logistics là lĩnh vực liên ngành không thể tách rời với hoạt động tạo thuận lợi thương mại. Đây cũng là kết quả của sự lắng nghe và tiếp thu những ý kiến tư vấn quý giá của Ngân hàng Thế giới và nguyện vọng của cộng đòng doanh nghiệp.

Trong những năm qua, Chính phủ cũng đã đầu tư nhiều hơn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng  như phát triển các tuyến đường cao tốc, xây dựng các cảng nước sâu và nhiều hạ tầng quan trọng khác. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân của Việt Nam đều ở mức trung bình 5,7% GDP, cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Xét trong phạm vi toàn lãnh thổ châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, với con số đầu tư 6,8% GDP.

Từ phía doanh nghiệp, chúng tôi cũng đánh giá cao những hành động của Bộ Công Thương nhằm tạo ra sức bật cho ngành logistics thông qua các chương trình cải cách thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho khu vực doanh nghiệp. Bộ đã chủ động xây dựng Kế hoạch cải thiện chỉ số Hiệu quả Logistics của Việt Nam thông qua Quyết định số 708/QĐ-BCT năm 2019. Bộ Công Thương cũng là đơn vị chủ trì nhiều sự kiện có ý nghĩa về phát triển logistics như Triển lãm quốc tế Air Freight Logistics hay tổ chức thành công Hội nghị thường niên lần thứ 29 của Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận ASEAN (AFFA) trong năm 2019.

Những cố gắng từ phía Chính phủ và các Bộ ngành đã đem lại nhiều thay đổi tích cực. Kết quả Chỉ số Hiệu quả Logistics gần đây nhất xếp Việt Nam ở thứ hạng 39/160 quốc gia theo xếp hạng của ngân hàng thế giới. Đây là thứ hạng tốt nhất mà Việt Nam từng đạt được kêt từ năm 2007 và cao thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Logistics cũng đang là một trong những ngành tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng bình quân 14-16%/năm. Tính đến hết năm 2019, thị trường logistics đã có sự tham gia của khoảng 4000 doanh nghiệp trong nước và nhiều tập đoàn logistics tên tuổi trên toàn cầu ( mà có tới 10% tham gia hội nghị này).

Những thách thức trong lĩnh vực logistics mà doanh nghiệp phải đối mặt

Dù lĩnh vực logistics của Việt Nam có nhiều điểm sáng trong thời gian gần đây, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng sự phát triển của ngành logistics trong nước vẫn gặp phải rất nhiều thách thức.

Thách thức lớn nhất và cũng là chủ đề thảo luận của Diễn đàn Logistics Việt Nam năm này là vấn đề chi phí dịch vụ logistics còn cao. Theo thống kê của công ty nghiên cứu uy tín Armstrong & Associates (Hoa Kỳ), chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam tương đương 20,9% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore, cao gần gấp hai lần so với các nước phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu là 14%. Trong chi phí logistics tại Việt Nam, chi phí vận tải quá cao, tương đương 30 – 40% giá thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này chỉ khoảng 15% ở các quốc gia khác. Điều này làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam.

Tôi sẽ tập trung vào ba vấn đề cơ bản khiến chi phí logistics còn thiếu tính cạnh tranh đó là: (1) cơ sở hạ tầng, (2) thủ tục hành chính, và (3) sự kết nối của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài.

Thứ nhất, cơ sở hạ tầng logistics của Việt Nam được cải thiện đáng kể trong vòng một thập kỷ qua nhưng vẫn tồn tại những điểm nghẽn. Theo Niên giám thống kê vận tải và logistics Việt Nam 2019, tổng chiều dài đường bộ của Việt Nam là 630.564 km nhưng tổng chiều dài các đường cao tốc đang vận hành lại chưa đến 2.000 km. Với khoảng gần 80% lưu lượng hàng hóa của doanh nghiệp được vận chuyển bằng đường bộ, nhu cầu về những tuyến đường cao tốc hoàn thiện là rất cần thiết, đặc biệt là một trục chính có chất lượng cao như cao tốc Bắc – Nam. Bên cạnh khó khăn từ vận tải đường bộ, hệ thống đường sắt trong nước khá lạc hậu và thiếu kết nối vào các cảng hàng hóa. Hệ thống đường thủy nội địa chưa được chú trọng khai thác hiệu quả. Các hạ tầng kết nối đường bộ với cảng biển như cảng container nội địa (ICD), hay các trung tâm logistics đa phương tiện vẫn còn thiếu vắng.

Thứ hai, gánh nặng tuân thủ thủ tục hành chính đang từng bước được gỡ bỏ nhưng dư địa để cải thiện vẫn còn rất nhiều. Theo những khảo sát gần đây của VCCI, các hoạt động kiểm tra chuyên ngành còn khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian để tuân thủ. Quy trình thủ tục hành chính còn phức tạp, thiếu rõ ràng và chồng chéo, đặc biệt ở các thủ tục hành chính liên ngành có sự tham gia của nhiều cơ quan Nhà nước. Bên cạnh đó, chi phí không chính thức trong thực hiện thủ tục hành chính vẫn phổ biến góp phần khiến chi phí logistics nói chung tăng lên.

Thứ ba, sự kết nối của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài còn khá lỏng lẻo. Thị phần dịch vụ logistics Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp lớn của nước ngoài nắm giữ. Doanh nghiệp trong nước chỉ có khoảng 25% thị phần. Dù doanh nghiệp trong nước am hiểu thị trường và thị hiếu của khách hàng, họ chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với năng lực không đồng đều và đi sau các doanh nghiệp FDI về trình độ công nghệ. Chính vì thế, việc tăng kết nối và xây dựng hệ sinh thái cộng sinh với nhau và với doanh nghiệp FDI là cần thiết để “khơi thông dòng chảy” logistics, thông qua học hỏi các công nghệ mới cũng như thúc đẩy việc hình thành các dịch vụ môi giới, trung gian trong ngành logistics. Các dịch vụ môi giới và trung gian trong logistics sẽ giúp doanh nghiệp trong nước tối ưu hóa hơn việc vận tải hàng hóa bởi theo một thống kê gần đây của Ngân hàng Thế giới khoảng 70% xe chở hàng chấp nhận chạy không tải ở chiều về vì không thể tìm được khách hàng. Đây là một trong những nguyên nhân khiến chi phí logistics của doanh nghiệp trong nước rất thiếu tính cạnh tranh.

Cơ hội trong thử thách

 Chúng ta thường nói “trong nguy có cơ”. Đúng như vậy, thách thức luôn song hành với cơ hội. Năm nay là một năm sóng gió của nền kinh tế thế giới nói chung và ngành logistics nói riêng do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch toàn cầu Covid-19. Tuy nhiên, Covid - 19 là sự cảnh báo làm chúng ta ngộ ra những yêu cầu và phương thức mới để định hình lại xu hướng ngành logistics trong dài hạn theo hướng hiệu quả hơn, bền vững hơn và có khả năng chống chịu. Từ góc độ của các doanh nghiệp tại Việt Nam, tôi muốn tập trung vào một khía cạnh chủ chốt đó là thúc đẩy công nghệ và đổi mới sáng tạo trong Logistic.

Ứng dụng công nghệ tốt hơn trong hoạt động logistics là chìa khóa để các doanh nghiệp Việt Nam giảm các chi phí vận hành, nâng cao năng lực cạnh tranh và bứt phá trong thời kỳ hội nhập. Công nghệ internet vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ cảm biến, thực tế tăng cường, in 3D, công nghệ rô-bốt và phương tiện bay không người lái sẽ là những yếu đột phá ảnh hưởng sâu sắc tới lĩnh vực logistics trong 5-15 năm sắp tới. Số hoá và thông minh hoá là hành trình để ngành Logistic có thể vươn xa.

Đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ cũng là yếu tố tất yếu nếu xem xét bối cảnh Việt Nam hiện nay. Thương mại điện tử trong nước đang phát triển bùng bổ bắt nhịp theo xu hướng gia tăng thu nhập bình quân đầu người và sự phổ biến của việc sử dụng các ứng dụng di động. Bên cạnh đó, ở tầm vĩ mô, Việt Nam đã là thành viên của 16 hiệp định thương mại tự do, trong đó có những hiệp định thương mại tự do lớn như EVFTA, CPTPP hay RCEP. Những xu hướng mới này sẽ tạo đà cho hoạt động logistics trong nước vươn mình mạnh mẽ. Chính vì thế, đây là thời cơ vàng cho các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cách đây 1 năm ở Diễn đàn này, đồng chí Vương Đình Huệ từng nhận định: “Logistics là thiên đường cho khởi nghiệp sáng tạo”. Tôi hoàn toàn tán thành quan điểm đó. Đầu tư cho công nghệ và đổi mới sáng tạo là khoản đầu tư thông minh. Đó là một trong những chìa khóa cho mục tiêu cắt giảm chi phí logistics và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai.

Với ý nghĩa đó, từ góc độ của cộng đồng doanh nghiệp, chúng tôi cũng kỳ vọng rằng Chính phủ sẽ tiếp tục thúc đẩy các chương trình và gói hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng như duy trì những nỗ lực cải cách môi trường kinh doanh bằng việc tiếp tục gỡ bỏ những quy định không cần thiết và giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.

Cộng đồng doanh nghiệp gửi trọn niềm tin vào Chính phủ và các địa phương trong vai trò lãnh đạo các chương trình hành động phát triển logistics tại Việt Nam.

Đối với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, chúng tôi đã và đang đồng hành cùng Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp thúc đẩy các hành động thực chất nhằm cắt giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Chúng tôi luôn sẵn sàng đóng góp sức mình cho những chương trình dài hạn nhằm phát triển ngành logistics Việt Nam cùng các bộ ngành và các hiệp hội doanh nghiệp trong thời gian sắp tới.

(* Bài phát biểu của TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI tại Diễn đàn Logistic Việt Nam)

Có một câu chuyện rất đáng nhớ trong lịch sử - Công tác bảo đảm hậu cần (Logistic) cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Đó là điều bất ngờ lớn nhất và được ví như một kỳ tích trong lịch sử quân sự Việt Nam. Vị tướng huyền thoại - Tổng Tư lệnh chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói về kỳ tích này: "Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn được là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề về chiến thuật để làm nên chiến thẳng". Những tư tưởng lớn thường gặp nhau, tương tự như vậy, cũng vào thời điểm đó, ở bên kia bán cầu, Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower cũng đã từng nhận định: “Mọi sự thành hay bại của một trận chiến, một chiến dịch hoặc thậm chí cả một cuộc chiến tranh về cơ bản đều nằm ở vấn đề logistics". 

Theo Tạp chí diễn đàn doanh nghiệp

https://enternews.vn/ba-diem-yeu-co-huu-khien-chi-phi-logistics-con-thieu-tinh-canh-tranh-186440.html